Trên con đường lấy lịch sử để giải thích hiện tại, có một việc tôi
đang muốn dành thời gian để làm là đọc lại sử nước mình những năm sau
chiến tranh – ta hay gọi là hậu chiến.
Câu hỏi đặt ra hôm nay: đánh xong quân Nguyên, xã hội VN thời nhà Trần ra sao? Và tôi tìm thấy một số tư liệu như sau.
Dưới con mắt Đào Duy Anh
Trong cuốn Lịch sử VN- từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, Đào Duy Anh dành hẳn một chương, chương XXV, nói về Bước suy đốn của nhà Trần, trong đó nói rõ việc đầu tiên Trần Nhân Tông cho làm sau khi quân Nguyên rút lui năm 1285 là duyệt lại hộ khẩu trong nước.
Để làm gì? Theo Đào Duy Anh, để tìm cách “lấy tiền của mà tu bổ những tổn hại do chiến tranh gây nên.”
Tiếp đó, Đào Duy Anh kể ra nhiều việc nhà Trần đã làm sau 1288, nhằm “ra tay bóc lột nhân dân thêm nữa”.
“Ngay năm 1290, sử đã chép có nạn đói lớn [….] Sau khi đã ra sức tham
gia kháng chiến trong quân đội hay trong dân quân, người nông dân thấy
đời họ không được cải thiện mà lại còn bị bóc lột hơn xưa, họ rất lấy
làm bất bình mà đã rục rịch phản đối. Không thể dùng ngay thủ đoạn khủng
bố, Trần Khâm ( tức Nhân Tông—VTN ) lại nghĩ ngay đến việc dụng binh
đối với các nước nhỏ láng giềng để đánh lạc hướng bất bình của nhân
dân” (Sđd, bản của Nxb Văn hóa Thông tin, 2002, tr. 258-259)
Theo cách miêu tả của Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh
Trên đây tôi đã bắt đầu từ cuốn sử của Đào Duy Anh.
Khốn thay là từ 1958 tới 1980, Đào Duy Anh bị vướng vào vụ Nhân văn
nên các tác phẩm của ông, kể cả cuốn trên, không được in lại. Tuy một số
phương diện tư tưởng của ông có được các học trò xuất sắc ở thế hệ sau …
tiếp tục, nhưng thực tế là người ta càng ngày càng xa rời cái chiều
hướng mà Đào Duy Anh theo đuổi để đi vào một thứ sử học đơn giản và vụ
lợi, cốt phục vụ các mục đích chính trị trước mắt.
Cũng may mà những năm trước 1975, tình hình cũng chưa đến nỗi hoàn toàn bi đát.
Theo dư luận chung, một trong những cuốn xuất sắc nhất thời ấy là Lịch sử chế độ phong kiến VN của khoa Sử đại học tổng hợp viết trước 1975, cuốn I sách này dành để viết về VN trước thế kỷ XV.
Nhưng tôi hiện không có cuốn đó trong tay, chỉ đành dựa vào bộ Lịch sử Việt Nam quyển I, tập II, bao quát giai đoạn từ thế kỷ VII tới 1427 của Khoa Sử Đại học sư phạm, nxb Giáo dục Hà Nội, 1970.
Ở cuốn sách này, tôi tìm được những trang sử mà mình muốn biết và muốn mọi người cùng biết.
Sau chương V nói về cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông, chương VII cuốn sử do Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh biên soạn mang tên Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIV.
Ngay phần mở đầu chương, cùng với việc nêu rõ tầm cỡ chiến thắng, các tác giả viết:
“…ba năm chiến tranh ác liệt chống chọi với kẻ địch nổi tiếng về tính
chất cướp bóc và phá hoại đã để lại những hậu quả quan trọng cho sản
xuất và đời sống nông dân. Liền sau đó hai năm 1290, 1291 là những năm
đói lớn, một thăng gạo trị giá một quan tiền, nhiều người dân phải bán
ruộng đất và con trai con gái để lấy lương ăn.”(tr 258)
Hoàn cảnh hậu chiến khó khăn, hẳn không ai lạ gì. Các nhà sử học tôi
muốn giới thiệu trong bài này chỉ hơn hẳn các nhà sử khác là không lảng
tránh mà coi đó là một đối tượng cần phải miêu tả.
Trong sự hạn chế của một nền sử học viết trong hoàn cảnh 30 năm chiến
tranh, họ dường như muốn cảnh báo trước về những khó khăn mà con người
hậu chiến hiện đại sẽ phải chịu đựng.
Theo sự chỉ dẫn của các tác giả, người ta được biết những năm đó,
nguy cơ của một cuộc xâm lược lần thứ IV của quân Nguyên vẫn chưa hết.
Nhưng có cái lạ mà khi đọc lại chúng tôi hết sức ngỡ ngàng, đó là chỉ
hai năm sau, lập tức vua và quí tộc nhà Trần đã phát động cuộc chiến
tranh xâm lược các nước láng giềng ở phía Tây và phía Nam, tức Ai Lao và
Chiêm Thành.
Và có ít đâu, cuộc chiến Việt Nam Ai Lao thời ấy kéo dài hàng nửa thế
kỷ ( xem tr. 260), mà cuộc chiến với Chiêm Thành lại còn dây dưa lâu
hơn – trận chiến cuối cùng mà quân nhà Trần tiến hành ở Chiêm Thành là
vào 1396 (tr.263).
Các bộ lịch sử VN viết trong những năm chiến tranh có thói quen ca
tụng tất cả những cuộc chiến tranh mà ông cha ta đã tiến hành trong quá
khứ.
Nhưng ngay ở đoạn viết về cuộc chiến tranh sang đánh Ai Lao của Trần
Nhân Tôn năm 1290 và 1294, các tác giả của Khoa Sử trường Đại học Sư
phạm đã vượt ra ngoài thói quen đó.
Các ông nói rõ đây là những cuộc hành binh phi nghĩa.( Tr 259)
Nhìn lại cả một thế kỷ chiến tranh ở mặt trận Tây – Nam, các tác giả
bảo rằng nó đã huy động “những khả năng lớn lao của dân tộc” chỉ “để
thỏa mãn những tham vọng về đất đai uy thế và quyền lực” của vua chúa
thời ấy mà thôi( sđ d tr 263).
Để miêu tả đến cùng tâm lý bệnh hoạn mà vua chúa thời ấy mắc phải,
các tác giả Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh lại còn ghi lại một
cuộc bàn bạc trong triều đình nhằm tố cáo lý do giả tạo mà ông vua vừa
chiến thắng quân Nguyên nêu ra để buộc mọi người làm theo ý mình.
Ở tr 259, sách kể khi đánh Ai Lao, bầy tôi có người can ngăn rằng
giặc Nguyên vừa mới rút lui, vết thương chưa hàn gắn được, không nên gây
việc binh đao, thì vua trả lời đại ý rằng “sau khi giặc rút lui, các
nước bên cạnh tất bảo là quân mã của ta mỏi mệt, có ý coi thường, cho
nên cần phải khởi đại binh để ra oai với nước khác”.
Tóm tắt tình hình chinh chiến với Chiêm Thành, các tác giả cho biết:
“ từ 1361, quân nhà Trần lui dần vào thế phòng ngự, chuyển cuộc
chiến tranh ở đất nước người về đất nước mình, nhân dân lao động phải
gánh chịu những thảm họa của chiến tranh trực tiếp và ghê gớm hơn.”
“…sức sản xuất bị đình trệ và có lúc bị phá hoại nặng nề đưa đến nạn
đói lưu niên. Chỉ tính từ 1290 đến 1379 đã có 13 lần đói trầm
trọng…(tr. 265)
Xét chung tình hình quốc gia, xưa nay dân ta hay nói sau khi chiến thắng quân Nguyên, đây là giai đoạn “ngàn năm thăng bình”.
Thăng bình là từ cũ nay ít dùng. Hán Việt tân từ điển của
Nguyễn Mộng Hùng ( S. 1975) lý giải là “lên cõi bình trị trên toàn đất
nước”, tiếp đó ghi lại câu thơ Nguyễn Khuyến “ “Kìa hội thăng bình tiếng
pháo reo” làm dẫn chứng .
Nhưng theo các tác giả cuốn sách đang nói, tình trạng thăng bình — và
nghĩa giản dị hơn là một cuộc sống yên ổn — không đến với dân chúng.
Cuộc sống “an cư lạc nghiệp mà người dân Đại Việt muốn sau những năm
chống quân Nguyên căng thẳng, không thể tìm thấy được trong cả thời gian
rất dài gần hết thế kỷ XIV” ( sđ d tr. 264).
Tại sao vậy? Tạm nêu lý do:
a/ Bao trùm trong những người quản lý quốc gia là tâm lý đắc thắng kiêu ngạo “ bụi Hồ không dám động”.
b/ Khi đã mất hết cảm giác chính xác về thời cuộc, tầng lớp quí tộc
cầm quyền những năm sau chiến tranh tự cho phép mình rơi vào ăn chơi sa
đọa.
Có thể hình dung sự ăn chơi của vua quan nhà Trần thời hậu chiến là vô cùng bỉ ổi, bởi họ có lý có lẽ hẳn hoi.
Nói theo chữ nghĩa thời nay, họ lao vào hưởng thụ một cách có ý thức.
Với tư cách là người chiến thắng họ cho mình cái quyền đó. “Cuộc chơi năm nay lại hơn những cuộc chơi năm xưa” – trong một bải thơ vua Trần đã nói như vậy( sđd tr 263).
Nói theo chữ nghĩa thời nay, họ lao vào hưởng thụ một cách có ý thức.
Với tư cách là người chiến thắng họ cho mình cái quyền đó. “Cuộc chơi năm nay lại hơn những cuộc chơi năm xưa” – trong một bải thơ vua Trần đã nói như vậy( sđd tr 263).
Ta hãy chú ý đến một khoảng cách là 40 năm hậu chiến.
Đây là thời Dụ Tông.
Đây là thời Dụ Tông.
Tiếp theo AnhTông (1293-1314), Minh Tông(1314- 1329) Hiến Tông (1329—1340), vị vua này trị vì từ 1341 – 1369.
Lịch sử Việt Nam của Lê Thành Khôi viết ở bên Pháp từ 1950
và mới được dịch ở ta 2014, trong chưa đầy hai trang ngắn ngủi nói về
sự suy tàn của nhà Trần ( tr 225-227), cũng phải đề cập tới Trần Dụ
Tông.
Ông vua này được miêu tả là người “chỉ nghĩ đến rượu chè chơi bời và phung phí công quỹ vào việc xây cung điện.”
Trở lại với cuốn LSVN của khoa Sử ĐHSP, thời kỳ Dụ Tông nhiều chùa
tháp và cung điện được xây dựng. Vua sai đào hồ lớn ở vừờn ngự, chất đá
thành núi, bốn mặt khai sông cho nước thông vào để làm chỗ vui chơi.
Sau đó còn đào một hồ nhỏ khác bắt dân Hải Đông chở nước mặn về chứa vào
hồ để nuôi hải sản (tr 263-264).
Thời kì Dụ Tông cũng là thời kì những kẻ bất tài khéo nịnh được thăng
quan tiến chức, viên chính chưởng phụng ngự Bùi Khoang giả vờ uống hết
100 thưng rượu mà được thăng tước.( tr 264)
Từ những ghi chép và bình luận của Ngô Thì Sĩ
Trên đây là mấy tài liệu lấy ra từ các bộ sử đương đại. Dưới đây là các bằng chứng xa xưa hơn.
Khi nói về các bộ cổ sử, người ta phải nói tới Đại Việt sử ký toàn thư của Lê Văn Hưu và Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn.
Nhưng thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu còn giới thiệu một vài bộ sử khác, bộ nào cũng có những khía cạnh mới.
Một tác giả như Ngô Thì Sĩ (1726-1780) đã mang lại cho cổ sử những
ghi chép người khác hoặc bỏ qua, hoặc ghi không rõ, và nhất là những
bình luận độc đáo, mang dấu ấn một tư duy sử học gần với con người hiện
đại.
Chung quanh thế kỷ XIV mà chúng ta đang nói, đọc vào cuốn của Ngô Thì
Sĩ thấy nhiều ý tứ phê phán mạnh bạo hơn, nên trong bài này tôi muốn
cùng bạn đọc lần vào các trang sử của người thân sinh Ngô Thì Nhậm, với
sự lưu ý trước rằng, nhiều chi tiết có thể đã thấy ở cuốn Toàn thư, cũng như ở Cương mục.
Tài liệu tôi dùng lần này là bản Đại Việt Sử Ký Tiền Biên, bản dịch của Viện nghiên cứu Hán Nôm, in 1997.
Xin phép bắt đầu bằng cách nói tạt ngang về một chuyện có liên quan tới sự lạ lùng của ĐVSKTB.
Gần đây báo chí nói nhiều tới việc Nhân Tông thượng hoàng (trị vì từ 1279 tới 1293) đi tu.
Một lần khoảng 2010, gặp nhau ở Sài Gòn, anh Trần Đĩnh — bằng sự
lịch lãm của một người đã qua sống qua ba chục năm chiến tranh và hết
sức thông thạo mọi đường ngang ngõ tắt của các trung tâm quyền lực – đã
giải thích với tôi, chắc là Nhân Tông thấy chiến tranh khủng khiếp quá,
nên tìm cách tách mình ra khỏi thời sự mà suy nghĩ đấy thôi.
Cũng là một cách ghi nhận tâm lý hậu chiến!
Thật thú vị khi đọc Ngô Thì Sĩ lại bắt gặp một ý tưởng tương đồng.
Tiếp theo đoạn ca ngợi Thượng hoàng Nhân Tông, tác giả ĐVSKTB đứng trên lập trường nhà nho dấn thân, để chỉ ra trong hành động đi tu này vài ý nghĩa tiêu cực.
Tiếp theo đoạn ca ngợi Thượng hoàng Nhân Tông, tác giả ĐVSKTB đứng trên lập trường nhà nho dấn thân, để chỉ ra trong hành động đi tu này vài ý nghĩa tiêu cực.
Ngô Thì Sĩ viết “Vua Nhân Tông tinh thông kinh điển, vốn có giác ngộ,
trong thiên hạ không vật gì đáng bận tâm. Nhưng đường đường là đấng
thiên tử mà ẩn náu nơi hang cùng ngõ hẻm, sớm hôm cùng một hai nhà sư
trên núi không có hám của cải, sống trong cảnh thái bình cho đến hết
đời, công nhiên dùng Phật học mà dẫn dắt con cháu, đưa cả thiên hạ vào
giáo lý đạo Phật, lỗi ấy không gì lớn hơn. (Tr 394 sđd)
Trở lại với cái mạch chung của thế kỷ XIV.
Trở lại với cái mạch chung của thế kỷ XIV.
Trên nét lớn, sau khi đọc các nhà sử học đã dẫn ra ở trên, người ta
chỉ có thể đi đến kết luận rằng sau một thời đại anh hùng là một thời kỳ
đen tối và thế kỷ XIV là một thời kì đau đớn trong lịch sử nước ta.
Sau khi Nhân Tôn bỏ việc đi tu, người kế tục ông là Anh Tôn đã nổi tiếng về chơi bời hư hỏng.
Các sách sử cũ đều viết và Ngô thì Sĩ cũng viết rằng một lần khi
Thượng hoàng Nhân Tôn từ Thiên Trường về Kinh sư, mọi người trong ngoài
đều không biết; vua uống rượu xương bồ quá say, Thượng hoàng đi xem khắp
cung điện suốt hai khắc đồng hồ, chuẩn bị đi ăn cơm, vua vẫn chưa tỉnh.
Cũng vua Anh Tông này, theo cách miêu tả của Ngô Thì Sĩ phải kể là vị
vua rất lông bông.“Vua thích vi hành, cứ ban đêm ngồi kiệu cho mười hai
người thị vệ theo, đi khắp trong kinh kỳ đến gà gáy mới về cung” (Tr
394 sđd )
Ở trên đã nói, nếu lấy khoảng cách là 40 –đến 50 năm sau chiến thắng thì ông vua nhà Trần trị vì lúc ấy là Trần Dụ Tông.
Ông này mới thật hoàn toàn tiêu biểu cho tình trạng suy đồi của vua quan nhà Trần thế kỷ XIV.
Về Dụ Tông những năm cuối đời, Ngô Thì Sĩ có lần buông một câu gọn ghẽ: “Việc làm rối loạn đạo trời, khiến cho Dụ Tông tinh còn mà thần mất, người khỏe mà tâm đã chết, tối tăm càn rỡ vào tận máu thịt”.
Thời Dụ Tông cũng là thời Chu Văn An dâng sớ xin chém mấy người gian nịnh. Bởi vậy, Ngô Thì Sĩ lại viết thêm:
“Cho dù Chu Văn Trinh muốn lấy nghĩa lý mà chữa, cuối cùng cũng không chữa nổi.” (tr 443)
Trong bài viết về Trần Khánh Dư, tính chung cả hàng ngũ vua quan
đương thời, tôi đã từng tạm khái quát “từ những người anh hùng có công,
nhiều người trong họ trở thành những viên quan cai trị có tội”.
Nhưng mà đấy mới chỉ là nói một cách chung.
Thực ra ban đầu các vị ấy đâu đã phải hoàn toàn hư hỏng.
Về sự suy đồi đạo lý của họ, Ngô Thì Sĩ đưa ra một sự so sánh:
+năm 1296, một viên quan thượng phẩm là Nguyễn Hưng phạm luật đánh bạc liền bị đánh chết(tr 396).
+thế mà đến năm 1362, vua Dụ Tông lại gọi người vào chơi bạc, để mưu
đóng vai nhà cái một vốn bốn lời “một lần đặt là 300 quan, ba lần đã gần
nghìn quan rồi”.
Dụ Tông cũng ban lệnh cho tư nô cày một mẫu đất ở bờ bắc sông Tô Lịch để trồng hành trồng tỏi, rau dưa rồi đem bán kiếm tiền.
Rồi làm cả quạt mang bán (tr. 453).
Rồi làm cả quạt mang bán (tr. 453).
Theo cách miêu tả của Ngô Thì Sĩ, Dụ Tông có một tính cách rất hiện
đại là biết dùng bộ máy quyền lực để kiếm tiền trong quan lại cấp dưới
và cả dân.
ĐVSKTB ở tr 455 kể một chuyện xảy ra từ đời vua cha là Minh Tông.
Thấy một nhà buôn là Ngô Dẫn giầu lên nhờ kiếm được ngọc quý, vua gả
ngay con gái cho Ngô Dẫn. Nhưng Dẫn cậy mình giàu có, lấy vợ lẽ và ở với
vợ lẽ, lại tỏ ý khinh bỉ công chúa. Đến đời Dụ Tông. Nghe lời than
phiền của em, Dụ Tông liền tỏ uy quyền bằng cách ra lệnh tịch thu toàn
bộ của cải.
Về việc vua Dụ Tông đào hồ làm nơi vui chơi mà trên kia cuốn LSVN của khoa Sử ĐHSP đã viết, Ngô Thì Sĩ còn ghi rất rõ:
+ trên hồ này, trên bờ trồng tùng trúc và các loại cây cùng hoa quý cỏ lạ.
+ Lại nuôi nhiều chim quý, thú lạ ở trong vườn.
+Đối với hồ nước mặt, sai bắt các con vật ở biển như đồi mồi cá, ba
ba đen về nuôi, lại sai người ở Hóa Châu (Thuận Hóa) chở cá sấu thả vào.
Ngô Thì Sĩ cho rằng cả Tùy Dạng Đế,– nhân vật nổi tiếng tàn bạo trong
lịch sử Trung Quốc — cũng không tìm được niềm vui tương tự.
Sau khi bảo rằng cách vui của Dụ Tông lúc ấy “có thể nói là vui mà
quên chết” Ngô Thì Sĩ viết tiếp “Người mải kiếm tiền và mải vui sẽ là
người lơi lỏng lơ là trong việc trị nước”.
Ông thầm nói với hậu thế chúng ta “Giả sử chuyển trí tuệ khôn khéo ấy
để trị dân trị nước thì làm gì lo đến sự bại vong” (tr 456).
Mở rộng ra nữa, ông cảnh báo về hậu quả mọi tội lỗi của các nhân vật
quốc gia: “trong thì mê gái đẹp, ngoài thì mê săn bắn, thích rượu, ham
âm nhạc. Làm nhà cao, đắp tường đẹp. Phạm điều này trong bốn điều này
chưa từng ai không bị diệt vong ( cũng tr 456).
Về đức hạnh của các quan đầu triều đương thời, Ngô Thì Sĩ có nêu một trường hợp là Trần Khắc Chung.
Ông này thường “cùng với học sĩ Nguyễn Sĩ Cố đánh cờ hàng mấy ngày
liền, đến nổi ngồi ngay bàn cờ mà ăn cháo, không nghỉ chút nào, được
thua một vài quan tiền cũng cố làm. Bạn bè có việc mở tiệc đầy năm cho
con hoặc mừng nhà hoàn thành, hễ mời là đến. Nhà thầy thuốc có món ăn
cũng mò mà đến, quân lính thết đãi ăn uống thì khen vợ họ để nịnh (sđd
tr. 431).
Trang 445 của cuốn ĐVSKTB kể năm 1354 có nạn đói, ngoài ra nhân dân
lại khổ vì trộm cướp, có người xưng là cháu ngoại của Hưng Đạo Vương tên
là Tề tụ hợp các gia nô bỏ trốn ở các xứ Lạng Sơn, Nam Sách.
Con cháu các cụ có người cũng không sống nổi, hỏi người thường ra sao?
Con cháu các cụ có người cũng không sống nổi, hỏi người thường ra sao?
Trong việc các vua Trần nửa cuối thế kỷ XIV đối xử với Chiêm Thành,
các nhà sử học hiện đại thường cũng quên không ghi rõ một điều mà Ngô
Thì Sĩ cùng nhiều ngòi bút sử học chân chính hồi xưa đã viết. Đó là
nhiều lần người Chiêm đã vào cướp phá cả những vùng như Thuận Hóa, và
quân ta thua chạy. Đến đời Nghệ Tông, quân Chiêm đến sát kinh sư. Đến
đời Duệ Tông thì xâm phạm xe vua.
Có lần một vua Chiêm là Chế Mỗ bị người trong nước đánh đuổi, vua
Trần chở che và cho người đưa về, nhưng thất bại, Chế Mỗ chết trong cảnh
đơn độc trên đất Việt.
Nói chung trong cách đối xử với các vua Chiêm, vua ta nhiều khi tiền
hậu bất nhất, dám tùy tiện làm nhiều chuyện mà trong quan hệ giữa các
quốc gia không được phép.
Nhìn chung về đội ngũ quan chức của nhà Trần suốt thế kỷ XIV, đọc Ngô
Thì Sĩ, người ta có thể nhận xét là sau khi đánh xong giặc Nguyên, chả
ai biết làm gì để khôi phục lại tình hình đất nước đã tiêu điều tan nát
trong chiến tranh. Trên thì không có chính sách, cấp dưới thì không có
người hiểu biết mà cố vấn cho vua.
Một đoạn có giọng văn bia Ngô Thì Sĩ về Dụ Tông, mà cũng là về tình trạng đổ đốn của con cháu các bậc anh hùng năm xưa:
“Dụ Tông lên ngôi 15 năm, sử chép 6 lần nhật thực, hạn hán đế 3 lần.
Một lần sâu keo mất mùa hàng năm. Đến khi ấy từ mùa xuân đến mùa thu núi
lở động đất lụt hạn, sét đánh, không tháng nào là không có. Trời phạt
tội dâm ác đến cực độ, răn đe nảy ra chính sự lười biếng, thế mà cha con
vua tôi trong một thời vẫn bình thản như thường. Kẻ
trên không có lòng thành khẩn xét mình, kẻ dưới không có lời tâu cứu
giúp thời cuộc, coi thường điều trời răn không biết sợ. Khinh bỏ việc
người không biết lo.( VTN nhấn mạnh). Sang năm sau, Minh Tông qua
đời, Dụ Tông thỏa lòng xa xỉ, giặc giã nổi lên từng bầy, việc thờ cúng
không ra lề lối, ngôi báu nhà Trần suýt di chuyển về họ Dương” ( tr
448).
Mấy điều tổng kết tạm thời:
I/Nếu lịch sử Việt Nam thường chỉ được quy kết vào lịch sử chống
ngoại xâm, thì việc ghi chép về các thời hậu chiến của người đương thời
đã ít, đến các sử gia hiện đại, việc này lại càng bị lảng tránh.
Điều đó có thể giải thích như sau:
I/ Đối với người xưa, nó chứng tỏ xã hội Việt Nam thực ra vẫn chưa
thực sự hình thành, quốc gia chúng ta vẫn giống như một đạo quân hơn là
một xã hội sống bằng làm ăn kinh tế và hướng tới phát triển.
Đối với các sử gia đương đại, nó càng chứng tỏ chúng ta chỉ mới có
một nền sử học phục vụ cho cuộc chiến đấu trước mắt. Dù đã mấy chục năm
ra khỏi chiến tranh nền sử học ấy vẫn chỉ xoay đi xoay lại các bài bản
cũ, cách làm cũ. Chúng ta thiếu các nhà trí thức biết nhìn lịch sử trên
cả chặng đường dài và bằng con mắt của con người hiện đại.
II/Khi miêu tả các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, các nhà sử học
hôm nay thường chỉ ghi chép những điều tốt đẹp mà không ghi những mất
mát đau thương mà chiến tranh mang lại.
Mà mất mát đau thương nhất của chiến tranh ở VN là gì?
Là cả cơ chế xã hội bị giải thể, trong đó bộ phận quan chức là bộ khung xã hội thì trở nên suy đồi không thể cứu vãn.
Ta thường chỉ nói tới mặt tích cực của quan chức trong thời chiến.
Cái đó thì đáng trọng thật.
Nhưng mặt khác phải thấy sinh ra trong thời chiến, họ chỉ biết việc binh đao mà không biết gì việc làm ăn và quản lí xã hội. Được làm vua thua làm giặc, kẻ võ biền chiến thắng tự dành cho mình tính chính danh trong việc quản lí đất nước.
Cậy là có công cứu nước, họ buộc cộng đồng mãi mãi mang ơn và tự cho mình có toàn quyền bóc lột đàn áp dân chúng.
Cái đó thì đáng trọng thật.
Nhưng mặt khác phải thấy sinh ra trong thời chiến, họ chỉ biết việc binh đao mà không biết gì việc làm ăn và quản lí xã hội. Được làm vua thua làm giặc, kẻ võ biền chiến thắng tự dành cho mình tính chính danh trong việc quản lí đất nước.
Cậy là có công cứu nước, họ buộc cộng đồng mãi mãi mang ơn và tự cho mình có toàn quyền bóc lột đàn áp dân chúng.
Trong việc học hỏi và tiếp thu văn hóa Trung Quốc, chúng ta thường
chỉ học lỏm về một số phương diện văn hóa; còn chính bộ phận văn hóa
quyền lực là phần văn hoá rất thâm hậu trong văn hóa Trung Quốc thì
chúng ta lại không hề tiếp nhận không học theo một cách bài bản.
III/Một thực tế của các vương triều hình thành sau khi chiến thắng là
chỉ được một hai đời, đến các đời sau đều đồi bại đi rõ rệt. Trên đã
nói những người đánh giặc giỏi chưa chắc đã là những người quản lý xã
hội giỏi. Giờ phải nói thêm con cháu các bậc anh hùng trong thời chiến
không mấy khi là những kẻ tử tế biết sống ra người trong thời bình. Đinh
Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành là thế. Nhà Trần là thế. Sau này là Nguyễn Huệ.
Quang Trung xuất sắc bao nhiêu thì đến Quang Toàn hèn kém bấy nhiêu.
Tôi nhớ một nhà xã hội học lớp trước đã nhận xét là ở Việt Nam chỉ có
giai cấp cầm quyền mà không có bộ phận quý tộc được hình thành nhiều
đời và có văn hóa. Chỉ có triều Nguyễn ở đầu thế kỉ XIX rút kinh nghiệm
được các triểu trước và tạo sự liên tục suốt bốn đời vua liền. Đó là
bước tiến bộ của lịch sử. Nhưng với con người thời nay, với các sử gia
Hà Nội trong 70 năm qua, thì triều Nguyễn lại không hề được quan tâm và
rút kinh nghiệm. Chỉ toàn những lời đả kích phê phán.
Nguồn :http://hocthenao.vn/2015/05/29/nha-tran-thoi-hau-chien-vuong-tri-nhan/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét