Nước chè (trà, búp cây chè tươi
sao khô, thường gọi là “chè (trà) mạn”) là thứ nước uống cao cấp. Trước
đây, ta chưa làm được chè mạn. Chè được nhập từ Tàu trong những thùng
bằng thiếc (chắc để đỡ công vận chuyển), về Hà Nội mới xan ra đóng vào
những lọ sứ màu trắng mang nhãn hiệu Ninh Thái hoặc Chính Thái (hình như
nhãn Chính Thái nổi tiếng và phổ biến hơn). Vì thế thường gọi là “chè
Tàu”.
Chính Thái chỉ là tên của hãng
buôn, chứ hoàn toàn không có nghĩa “Chính (gốc) Thái (Nguyên)” như có
người đã giải thích. Chè sản xuất ở vùng Mạn Hảo thuộc tỉnh Vân Nam,
Trung Quốc nên cũng được gọi là “chè Mạn”. Xưa đã có câu ca dao nói
những thú vui của người tao nhã:
Làm trai biết đánh tổ tôm,
Uống chè Mạn Hảo, ngâm nôm Thúy Kiều.
Thức uống này thường phổ biến ở
những gia đình sung túc. Dù có mức sống cao nhưng đây cũng chưa thể coi
là thức uống thường xuyên. Những ông chủ gia đình thường là các nhà nho
cũng chỉ có một cữ uống trà vào buổi sớm và những khi có khách quý. Bạn
nào muốn tường tận xin mời đọc “Chén trà trong sương sớm” cùng nhiều
truyện ngắn khác của Nguyễn Tuân. Không thể uống thường xuyên vì nhiều
lẽ. Trước hết giá không rẻ (vì chè phải nhập khẩu). Thứ nữa là muốn uống
trà không thể thiếu nước sôi. Lúc đó chưa có cái “phích”. Một số ít nhà
“có Tây học” đôi khi có cái “téc mốt” do Pháp sản xuất loại nhỏ thường
dùng pha sữa cho trẻ sơ sinh. Những người thường uống trà trong nhà
phải có hỏa lò (một thứ bếp nhỏ, thường đun bằng than hoa). Muốn uống
trà, phải nhóm bếp và giữ lửa cho tới khi ấm trà “tàn”. Đó là chưa kể bộ
đồ pha trà từ cái siêu đồng đun nước tới bộ ấm chén, ấm thì có ấm độc
ẩm, song ẩm, quần ẩm, … chén thì chén tống, chén quân, … rất là nhiêu
khê rắc rối, chỉ có nhà phong lưu mới có điều kiện đáp ứng, khó có thể
là thức uống phổ thông.
Các quán nước dưới gốc đa đầu
làng hay gần chợ (cả nông thôn và thành phố) thường bán nước chè tươi
hoặc nước vối. Nước thường chứa trong một cái nồi đất to, đặt trong cái
rổ xảo (hay cái thúng), xung quanh quấn bao tải hay rơm để giữ nóng.
Khoảng gần buổi trưa thì nước đã nguội. Người bán dùng gáo dừa múc nước
ra bát cho khách. Ở thành phố như Hà Nội, xung quanh các chợ, nhà ga,
bến xe hay trên xe hỏa, xe điện, có những đứa trẻ một tay xách cái ấm
(ấm đất hay ấm bằng tôn hay sắt tây), một tay cầm chồng bát đi rong bán
cho người qua đường.
Trước đây ở Phú Thọ đã có cảnh
“rừng cọ đồi chè”, người địa phương cũng đã biết hái và chế biến búp chè
tươi thành chè khô. Ở những nơi này, nhìn người làm chè là biết ngay,
hai bàn chân thường đen nhẻm vì nhựa chè khi vò chè bằng chân. Nhưng
người dùng loại chè này vì nhiều lý do đã nêu ở trên, không được phổ
biến.
Chè khô (hay chè mạn, từ chữ Mạn
Hảo) chỉ phổ biến từ khoảng những năm 60 thế kỷ trước. Theo lời kể của
những người cao tuổi, ông Đội Năm chính là người đã mang giống chè từ
Phú Thọ về trồng ở Tân Cương (Thái Nguyên). Ông Đội Năm tên thật là Vũ
Văn Hiệt, sinh năm 1883 tại xã Bạch Xam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.
Thuở nhỏ, ông làm ăn kiếm sống tại Hà Nội. Trong chiến tranh thế giới
lần thứ nhất, ông làm lính thợ sang Pháp. Do giỏi nghề nên được làm chức
“đội” (do vậy dân trong vùng gọi là Đội Năm). Mãn hạn về nước, ông cùng
11 người khác được chính quyền bảo hộ Pháp cho lên vùng Tân Cương khai
khẩn đất đai, rồi được tuần phủ Thái Nguyên cho thành lập làng Tân Cương
để sản xuất nông nghiệp. Từ đó, ở vùng Tân Cương, Thái Nguyên mới lấy
giống cây chè và học tập cách chế biến búp chè tươi thành chè khô ở Phú
Thọ. Nhờ thổ nhưỡng và khí hậu thích hợp, cây chè trồng ở vùng Thái
Nguyên, nhất là ở Tân Cương có hương vị đặc biệt, dần trở nên nổi tiếng.
Nghe nói trước 1945, chè Thái Nguyên đã được trưng bày ở Đấu xảo Hà
Nội, rồi được xuất khẩu đi nhiều nước, không rõ thực hư ra sao. Nhưng
theo tôi được biết, cho tới đầu những năm 60, chè ở Thái Nguyên và các
vùng lân cận đều thuộc loại hảo hạng nhưng đều chỉ được sản xuất với quy
mô nhỏ, chưa được bán theo cân lạng mà mua bán bằng ống bơ sữa bò. Để
chế biến thành chè loại ngon, người ta chỉ hái “một tôm hai cá” (búp
cùng với hai lá nhỏ) chứ không dùng máy, cắt những đoạn bằng cả gang tay
như bây giờ. Chè được “vò” bằng chân, sao trên bếp than củi từng ít
một. Cánh chè khi khô săn lại, cong như cái lưỡi câu (cũng có thể khi
nhúm một ít chè trong tay, các cánh chè móc vào với nhau) nên được gọi
là chè “móc câu”. Do trồng trên quy mô nhỏ, mỗi đợt hái, sao chè chỉ
được vài ba ống bơ, chủ yếu “tự sản tự tiêu” dùng trong gia đình.
Đến cuối những năm 60, việc sản
xuất và tiêu thụ chè Thái Nguyên có một bước đột phá. Thị trường tiêu
thụ được mở rộng. Có lẽ đầu tiên do cái “phích” bắt đầu được phổ biến.
Ban đầu là “phích” do Trung Quốc viện trợ (gồm hai loại, “phích” có cả
vỏ kim loại, sơn, trang trí khá đẹp mắt. và ruột “phích” (bộ phận bằng
thủy tinh), người sử dụng học theo người Trung Quốc, đan cái vỏ bằng
tre. Có “phích” mới luôn có nước sôi, mới có thể pha chè. Thêm nữa,
trong chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, các nhà ga, bến xe tập trung đông
người được sơ tán đi nhiều nơi. Để tiện cơ động, các hàng nước chuyển
từ bán nước chè tươi hay nước vối (uống bằng bát) sang bán chè chén. Chè
được hãm trong các ấm tích (vốn xưa được dùng pha chè tươi hay lá vối
dùng trong gia đình), có giỏ giữ nóng, khách uống bằng chén. Loại chén
to bằng chén quả hồng ngày trước. Những hàng nước chè chén này ngày càng
được phổ biến và có lẽ là mặt hàng đi tiên phong trong việc lấn chiếm
vỉa hè. Buôn bán trên hè phố bắt đầu mở rộng từ hồi ấy. Rồi các cơ quan
sơ tán về các nơi xa thành phố, thị xã, ở nhà dân. Trước đây, mỗi khi
cần uống nước, ai cũng chỉ tới cái thùng đựng nước chung của cả cơ quan.
Uống ngụm nước rồi trở về với công việc. Nay ở nhà dân, đun nước không
có gì khó khăn, (được cái nhà nào cũng tiện củi lửa), lại phân tán, vài
người làm việc ở một nhà. Thế là dần thành lệ, đầu giờ làm việc là đun
nước, pha trà, rồi trò chuyện trên giời dưới đất, tàn ấm trà mới bắt tay
vào việc. Cán bộ nhà nước bắt đầu lười nhác, giờ làm việc có thể bỏ đi
làm việc riêng của bản thân là từ khi này.
Rượu do nhà nước sản xuất được
gọi là rượu quốc doanh, còn rượu do dân tự nấu xưa Pháp gọi “rượu lậu”,
dân gian gọi rượu “quốc lủi”. Chè do dân tự sản tự tiêu thì gọi là “chè
chui” vì mua bán không được công khai. Từ cuối những năm 60, trên các
chuyến tàu hỏa Thái Nguyên về Hà Nội, cán bộ phòng thuế đi kiểm tra
thường xuyên, ai mang chỉ dăm ba lạng chè đã có thể bị tịch thu.
Lưu thông đàng hoàng trên thị
trường chỉ có chè do nhà nước sản xuất, loại nào cũng đóng gói 50 gam.
Rẻ tiền nhất là chè Liên hoa (ý là hoa sen đấy!). Nhưng cái tên mỹ miều
ấy chẳng mấy ai còn nhớ, chè được bán với giá cung cấp ba hào (0 đ 30)
một gói nhưng người ta quen gọi là chè “chin hào ba” (chin hào ba gói)
cho nó “sang”. Có lẽ đây là một trong những biểu hiện ban đầu của cái sự
giờ ta vẫn gọi là “nói vậy mà không phải vậy”. Đặc điểm của loại chè
này là không thể uống đặc dù là người nghiện hay người miền Nam hay uống
“trà quạu” (trà pha rất đặc) vì nó vừa hắc, vừa đắng. Cách dùng phổ
biến nhất ở các nhà ăn tập thể là người ta trút vài gói vào cái thùng
chứa nước nóng to tướng (chỉ dám nói là nước nóng, còn đã sôi hay chưa
thì…. không biết!). Chè sẽ khiến cho nước có chút màu nâu và nhờ chút ít
vị chát có thể xua cái vị hơi tanh của nguồn nước không được trong
lành. Những người cầu kỳ muốn thỏa cơn “nghiện”muốn sử dụng loại chè này
phải rất công phu. Đầu tiên, bóc cả gói chè, đổ lên một tờ báo. Sau dó
dùng tay với rất nhiều động tác chẳng kém gì các ảo thuật gia, làm cho
những cánh chè “nổi” lên trên. Đó chính là cái phần tinh túy nhất có thể
sử dụng. Phần còn lại (khoảng ba phần tư) chỉ có đổ đi, không ai có thể
dùng được.
Chất lượng cao hơn có tên là
chè Hà Giang, được bán cung cấp với giá bốn hào rưỡi một gói dành cho
các cơ quan tiếp khách. Ai mua được hay nhờ người mua được một gói
thường phải để dành, đợi tới khi có các lý do “trọng thể” mới dám sử
dụng.
Cao cấp có nhiều loại: Ba Đình, Thanh Hương, Hồng Đào, Thanh Tâm, …. nhưng chỉ bán thường xuyên ở các cửa hàng cung cấp:
Tôn Đản là của vua quan,
Nhà Thờ là của trung gian nịnh thần.
Mỗi năm, vào dịp Tết Nguyên đán,
mỗi hộ dân (có sổ hộ khẩu) được mua một gói hàng Tết, trong đó “ơn đảng
ơn chính phủ”, thể nào cũng có một gói chè loại này. Tôi có người bác,
vốn nghiện chè từ xưa. Mỗi khi Tết đến, ông thường cắt lấy cái nhãn của
gói chè cao cấp dán lên cái lọ đựng chè màu nâu. Khéo là ở chỗ cả gói
chè 50 gam đựng vừa trong cái lọ này mặc dù lọ sản xuất là để đựng 100
viên vitamin C. Tất nhiên, cái chè thật thì chẳng bao lâu đã hết, nhưng
khách tới vẫn bị ám ảnh bởi cái nhãn rất sang trọng đó trong suốt năm..
Năm ngoái, nghe giới thiệu phim
Trò đời được làm dựa vào mấy cuốn sách của nhà văn Vũ Trọng Phụng, tôi
vốn thích xem, thích đọc những cái thuộc về ngày xưa để thêm hiểu biết
quá khứ mà bản thân mình còn nhiều mù mờ, háo hức chờ đón. Nhưng chỉ xem
chưa hết tập đầu vội “chuyển kênh” vì từ thời đó, những người làm phim
đã cho cảnh bán nước chè chén trên vỉa hè Hà Nội. Rồi họ còn cho hàng
nước vỉa hè bán thuốc lá, những bao thuốc đặt trong cái hộp gỗ có mặt
kính như ta thường thấy ở các quán nước vỉa hè ngày nay. Thật vô cùng
tùy tiện! Thuốc lá thời ông Vũ Trọng Phụng sống đều phải nhập khẩu từ
Pháp, chỉ có những người Tây hoặc người Việt Nam sang trọng, giàu có mới
biết hút thuốc lá. Người Việt Nam, kể cả nhiều người sung túc cũng chỉ
hút thuốc lào (khác là người sang trọng hút điếu bát, có những cái điếu
có thể nói là sản phẩm nghệ thuật, còn người bình dân thì hút bằng điếu
cày).
Chuyển kênh vì không muốn bị đánh lừa (có nhiều cái đã biết, tất có nhiều cái mình thấy mà không biết!).
Bèn ghi lại mấy chuyện này theo kiểu “nhớ gì ghi nấy” để các bạn trẻ khỏi nhầm lẫn.
nguồn : ông giáo làng . tiêu đề đổi cho nó chát
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét