Blog của phạm thị Hoài
Nam Đan
Giờ là những ngày cuối của tháng Tư. Năm
nào cũng vậy, càng đến gần ngày 30 tháng Tư tôi lại có cảm giác bất
thường, ngột ngạt, bực bội. Mà không phải chỉ riêng mình có cảm giác đó.
Nhìn quanh, tôi thấy bạn bè, người thân cũng vậy, và cả đời sống quanh
tôi cũng vậy.
Mở ti-vi lên là thấy xe tăng, bom đạn,
cờ hoa. Báo chí cũng vậy, có vơi đi phần nào, nhưng cũng vậy. Hò hét,
hoan hô. Đứng trên vũng máu hát ca, nhảy múa lăng xăng mãi nếu không
thấy trơ trẽn, thì cũng phải mệt và nhàm!
Năm nay là năm thứ 39 kể từ ngày
30/04/1975, cái biến cố làm thay đổi vận mệnh của từng số phận và của cả
dân tộc. Tôi nghĩ, cái ngày bất thường trong ký ức ấy sẽ chẳng bao giờ
trở nên bình thường. Ở bên này vĩ tuyến 17 cũng như bên kia. Với người
Việt ở trong nước cũng như người Việt ở hải ngoại.
Tôi vừa đọc bài “Ưu tư ngày 30-4” của tác giả Nguyễn Minh Hòa, ở blog Quê Choa.
Theo như nội dung của bài viết, thì tác giả là một sĩ quan trong quân
đội Bắc Việt có mặt trong đoàn quân tấn công và chiếm giữ Sài Gòn vào
thời điểm 30/04/1975. Với nhiều người, thì đây là những suy nghĩ chân
thực, cấp tiến trong lúc này. Tôi thấy có những chi tiết rất thú vị
trong bài khi ông nói về “chiến lợi phẩm”, xin trích lại nguyên văn như
sau:
“Lễ kỷ niệm ngày chiến thắng năm nào
cũng diễn ra trong không khí tưng bừng, cờ hoa rợp trời, mọi người hân
hoan, nhưng nhìn kỹ lại hình như không có mấy ai trong số những người
lính giải phóng thành phố ngày ấy có mặt trên lễ đài, hay trong khối
quần chúng tay vẫy cờ hoa. Những người lính còn sót lại qua những mùa
chiến dịch ấy, sau chiến tranh đã lặng lẽ trở về với đời thường, với cày
cuốc, với bò gà, với kìm búa. Nhiều người đã mất, nhiều người sống với
những thương tích, bị bệnh tật giày vò đau đớn, có một sự thực là đa
phần họ sống rất cơ cực. Thỉnh thoảng về quê hương gặp lại những người
đồng đội xưa mà muốn rơi nước mắt. Trở về quê sau những ngày hừng hực
chiến thắng ấy, hầu hết trong số họ gắn đời với mảnh ruộng, chẳng bao
giờ có dịp nào trở lại thăm thành phố này nữa, mà có muốn thì cũng chả
đào đâu ra tiền, bởi tiền ăn còn còn chả có, nói chi đến một chuyến đi
xa. Sau 1975, chả hiểu sao, bề trên vội vàng cho hàng triệu quân nhân về
quê càng nhanh càng tốt. Họ về nhà với những con búp bê mắt nhắm mắt mở
bằng nhựa tái chế đen thui, người khá hơn thì có thêm cái khung xe đạp
đểu làm bằng tôn mỏng. Họ để lại sau lưng những nhà cao cửa
rộng, biệt thự xe hơi, vàng bạc hột xoàn, đất đai mênh mông, những thứ
có được do máu của chính họ đổ ra, và rồi thế vào đó là những
người tiếp quản, những người “xây dựng, phát triển” từ hậu phương, các
hạt giống đỏ từ các nước xã hội chủ nghĩa tràn về tiếp nhận, sử dụng. Họ
chẳng màng, ngày ấy các sĩ quan dạy lính tráng rằng ai lấy chiến lợi
phẩm trước sau cũng bị chết, hay nói đúng hơn có màng cũng không đến
lượt, những chủ nhân mới tiếp quản cơ ngơi đồ sộ ấy cũng chẳng cần biết
ai mang lại cho họ những thứ đó, bởi đơn giản là họ hiểu đó là tiêu
chuẩn, chế độ được hưởng, vậy thôi. Rất, rất nhiều người trong số chủ
nhân mới ấy, trước đó chỉ là những tay làng nhàng, vớ vẩn, thậm chí cực
hèn nhát, bỏ ngũ, cơ hội, bị kỷ luật nay tự nhiên có ghế, được biếu
không một đống của cải, vào thời sốt đất có nhiều anh bán được cả nghìn
cây vàng, xem ra làm cách mạng cũng có số. Khi còn sống, danh tướng,
Thượng tướng Trần Văn Trà có một câu nói nổi tiếng mà có quá nhiều vị
không thích đó là “nói cho cùng thì tất cả những chiến công hiển hách
đều thuộc về những người lính bình thường nhất”, nhưng có một vế sau
không ai nói đến là “nhưng lợi ích và chiến lợi phẩm mà cuộc chiến đó
mang lại thì không thuộc về những người bình thường nhất”.
Đọc đến đây tôi khựng lại, lưu ý ở chỗ “Họ để lại sau lưng những nhà cao cửa rộng, biệt thự xe hơi, vàng bạc hột xoàn, đất đai mênh mông mông, những thứ có được do máu của chính họ đổ ra.”
À, thì ra lý do để đổ máu là thế! Là “những nhà cao cửa rộng, biệt thự xe hơi, vàng bạc hột xoàn, đất đai mênh mông mông,” của Miền Nam.
Và theo suy nghĩ của ông Hòa thì “những thứ có được” đó không phải là tài sản, là mồ hôi nước mắt của người Miền Nam, kẻ thua cuộc trong cuộc chiến, mà là từ “máu” của đồng đội ông, những thành viên của đội quân Miền Bắc, kẻ thắng cuộc.
Đọc xong đoạn này, tôi không khỏi có ý
nghĩ rằng cái “ưu tư ngày 30-04” này là ưu tư của một kẻ cướp không được
đồng bọn chia chác đồng đều, bị chơi cha, chơi gác, sau mẻ cướp.
Lâu nay, tôi thấy những “ưu tư”, “phản
tỉnh” nhuốm màu cay đắng kiểu này xuất hiện rất nhiều, ngày càng nhiều.
Chúng được nhiều người từng là chiến binh của lực lượng quân đội miền
Bắc, và nhất là những người trong Mặt trận Giải phóng Miền Nam, đã tham
dự vào cuộc chiến, bộc bạch trong lúc họ nói thật lòng. Chính những ý
nghĩ trung thực (mà ngô nghê) này đã xóa sạch ý nghĩa “cuộc chiến tranh
thần thánh; chống Mỹ cứu nước; giải phóng, bảo vệ đất nước” mà phía cộng
sản miền Bắc tuyên truyền với họ.
Sự thật ở đâu?
Chính đây là những sự thật nhỏ, góp lại
thành sự thật lớn: cuộc chiến tàn bạo, phi nghĩa, xuất phát từ một bên;
để lại hậu quả là một vết thương chẳng thể nào lành, và vắt kiệt sinh
lực của dân tộc!
***
Còn tôi, tôi thấy ngày tàn của cuộc chiến đó như thế nào ư? Tôi thấy nó qua tấm ảnh này:
Ngày
23/04/1975, đúng 39 năm trước, một người cha gánh đứa con nhỏ và một mớ
đồ ít ỏi, từ Trảng Bom, chạy về hướng Sài Gòn. Tôi tự hỏi cậu bé trên
lưng cha, hiện nay đã là một người trung niên trên 40 tuổi, còn sống hay
không? Giờ này cậu như thế nào? Trong hôm đó mẹ cậu ở đâu?
Và, quý ông Hòa kia ơi, ngoài những thứ chiến lợi phẩm: những nhà cao cửa rộng, biệt thự xe hơi, vàng bạc hột xoàn, đất đai mênh mông mông như ông vừa kể, thì Miền Nam còn có thứ tài sản trên đầu đòn gánh của người cha trong tấm hình này mà các ông đã bỏ quên.
Nó là: số phận của những con người!
Sài Gòn, 23/04/2014
http://www.procontra.asia
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét