A. SƠ LƯỢC BỐI CẢNH LỊCH SỬ DI DÂN TÀU Ở VIỆT NAM
Đất Giao
Chỉ xưa vốn thuộc Tàu, nên đã ngàn năm nay, việc người Tàu sang đây sinh
sống là chuyện thường tình. Nhưng di dân Tàu ồ ạt thành đoàn thành lũ
xuống phương Nam là bắt đầu từ giữa thế kỷ XVII. Họ là những kẻ bất phục
Mãn Thanh, sang Nam là để gìn giữ nề nếp phong tục người Hán. Họ tập
hợp nhau lập thành làng, gọi làng Minh Hương (làng của người Minh). Để
phân biệt, ta hiểu "người Minh Hương" là những di dân chính trị. Từ thế
kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX, ta có những "Hoa kiều", đó là những di dân
kinh tế.
Không có dân tộc nào tôn thờ chữ viết như người Tàu.
Nghệ thuật viết chữ được luyện thành thư pháp, như một tôn giáo để di
dưỡng tâm hồn. Văn tự thành chiếc cầu nối giữa người phàm với thần linh.
Lưu lạc đến bất cứ đâu, việc họ bắt tay thực hiện đầu tiên là lập hội
quán, để tập hợp thành cộng đồng tương trợ nhau; kế đó là xây dựng
trường học, để bảo tồn chữ Hán.
Thời Hậu Lê, người Tàu đã được
hưởng quy chế ngoại kiều. Người Việt vốn chuộng hư danh phù phiếm, xem
thường việc kinh thương, lại say mê đánh giết nhau, nên ngay từ
Trịnh-Nguyễn phân tranh, người Tàu đã nắm trọn độc quyền khai thác
khoáng sản, buôn bán gạo muối và kinh doanh vận tải; giang sơn Đại Việt
chia đôi chẳng ngăn được người Tàu ở hai Đàng hiệp lực với nhau, chi
phối và thao túng toàn bộ kinh tế Đại Việt. Người Tàu chí thú làm ăn,
cung cấp lương thực và hàng hóa cho hai phe đồng chủng Tiên Rồng đánh
giết nhau, và họ trở nên giàu có, một phần nhờ ở sự hiếu chiến oai hùng
của người Việt.
Sự giàu có của người Tàu được Nguyễn Huệ ghé mắt
xanh, đưa vào diện quan tâm đặc biệt. Những cuộc chém giết để cướp của
của người Tàu được giặc Tây Sơn tổ chức quy mô: San bằng Cù Lao Phố Đồng
Nai, hủy diệt Mỹ Tho, tàn sát Chợ Lớn. Huệ thành hiện thân của quỷ dữ,
người Tàu bị đẩy vào thế phải đâu lưng cùng Nguyễn Ánh để chung sức tiêu
diệt hung đồ bạo ngược.
Ghi nhớ công hãn mã khuông phò của bọn
người Tàu, khi lên ngôi, Gia Long đã dành cho Hoa kiều những đặc ân lớn:
nhẹ thuế khóa, miễn lao dịch và không phải đóng thuế thân. Vua lại cho
phép họ thành lập bảy đại bang theo phương ngữ, được quyền tự trị, là
Phúc Kiến, Phúc Châu, Triều Châu, Quảng Châu, Quế Châu, Lôi Châu và Hải
Nàm. Từ sau đời Minh Mạng, tuy cũng có lúc Hoa kiều bị siết chặt, ngăn
ngừa họ phóng túng vô cương, nhưng Hoa kiều vẫn luôn là cộng đồng được
ưu ái nhất ở Việt Nam. Đến khi người Pháp vào cai trị, những quy chế ưu
đãi của Nguyễn triều dành cho Hoa kiều được duy trì hầu như không đổi,
thế lực Hoa kiều cứ thế ngày một lớn mạnh.
Kể từ sau Hiệp định
Geneva 1954, Việt Nam chia thành hai miền Nam Bắc thì tình hình làm ăn
của Hoa kiều không còn hanh thông như trước.
Ngoài Bắc, các bang
hội bị giải tán, trường dạy chữ Tàu bị đóng cửa. Không giữ được văn tự
và bang hội, người Tàu đất Bắc nhanh chóng bị đồng hóa với dân bản địa,
không thể phân biệt được họ với người Việt bình thường. Trong Nam, chánh
quyền không có được lợi thế sắt máu của chuyên chính vô sản, nên đã
phải chật vật hơn rất nhiều trong việc đưa cộng đồng Hoa kiều hòa nhập
vào khối đoàn kết toàn dân, đồng thời vẫn để họ giữ gìn bản sắc, cũng
như phát huy sở trường kinh thương.
B. DIỄN BIẾN CÔNG CUỘC BẮT BUỘC HOA KIỀU NHẬP VIỆT TỊCH
Nhận thấy Hoa kiều đã được hưởng lợi lộc khổng lổ ở Việt Nam nhưng lại
không hề phải thực thi nghĩa vụ gì đối với quốc gia. Quy chế ngoại kiều
đã giúp họ không phải đóng thuế kinh doanh; thể chế bang hội tự trị
khiến họ trở thành những tiểu quốc gia trong một quốc gia Việt Nam Cộng
Hòa. Không chịu sự tài phán của tòa án Việt Nam, chẳng cần sự bảo vệ và
giúp đỡ của cảnh sát, tự họ giải quyết với nhau theo phán quyết của các
Bang trưởng. Sự khép kín của cộng đồng Hoa kiều là hành vi ích kỷ và bội
bạc với đất nước đã cưu mang mình.
Để kiến thiết kinh tế cũng
như tập hợp được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, việc đưa Hoa kiều hội
nhập là vấn đề quan trọng hàng đầu. Chánh phủ Ngô Đình Diệm vừa mới được
thành lập ở miền Nam ngày 26-10-1955, thì chỉ hơn một tháng sau, vào
ngày 7-12-1955, Thủ tướng đã ban hành Dụ số 10 quy định về Bộ Luật quốc
tịch Việt Nam. Điều 12 ghi rõ: “Con chính thức mà mẹ là người Việt Nam,
và cha là người Trung Hoa, nếu sinh đẻ ở Việt Nam thì là người Việt
Nam”. Theo đó, tất cả những ai gốc Tàu sinh ra ở Việt Nam đều bắt buộc
phải nhập Việt tịch, để được có quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Việt
Nam.
Bọn người Tàu bấy lâu nay vẫn được hưởng đặc quyền đặc lợi,
nay bỗng dưng thấy mình có nguy cơ bị thất sủng nên đã kiên quyết bất
hợp tác với chánh quyền. Hơn 800.000 thần tử Hoa Hạ ở miền Nam Việt Nam
chăm chú hướng về Đài Loan, trông chờ sự can thiệp của Tưởng Giới Thạch
[Con số 800.000 này không tính người Minh Hương; thời điểm đó tổng dân
số Việt Nam Cộng Hòa khoảng hơn 10 triệu].
Đinh ninh Thống chế
Thạch sẽ “trị” được Thủ tướng Diệm, nên Hoa kiều xem Dụ lệnh số 10 như
gió thoảng ngoài tai, không đáng để ý. Trước sự chây ỳ táo tợn khinh
thường luật nước đó, chánh quyền ban hành tiếp Dụ số 48 (ngày
21-8-1956), Sửa đổi Bộ Luật Quốc tịch Việt Nam, Điều 16 quy định: Hoa
kiều thổ sanh (sinh trưởng tại Việt Nam) sẽ là người Việt Nam, bắt buộc
phải nhập và khai nhận quốc tịch Việt Nam, hoặc nếu không chịu nhập tịch
thì có thể xin hồi hương (về Đài Loan) trước ngày 31-8-1957. Thời hạn
ấn định cho những Hoa kiều sinh tại Việt Nam phải làm khai sinh để được
cấp thẻ căn cước sẽ kết thúc ngày 08-4-1957, việc kiểm tra sẽ hoàn tất
vào ngày 22-6-1957. Bằng Dụ lệnh này, Diệm cho thấy sự kiên quyết của
chánh quyền để buộc Hoa kiều vào khuôn phép. Ai không muốn nhập tịch cứ
sang Đài Loan sinh sống, mỗi người sẽ được chánh quyền cấp cho 400 đồng
để "hồi hương", đúng theo luật định.
Ngày 29-8-1956, Thủ tướng
ban hành Dụ số 52 qui định Hoa kiều sinh sống tại miền Nam phải mang
quốc tịch Việt. Khi có quốc tịch, họ được tự do giao dịch, đi lại và
buôn bán. Người Tàu phải Việt hóa tên họ (như Trịnh, Quách, Mạch, Lâm,
Giang, Diệp, Lưu, Vương, Hà, Hứa, Mã, Lý, Trần, Trương, v.v...) chứ
không được xưng các tên ngoại quốc hay tên gọi riêng như Chú, A, Chế...
kể cả bí danh trong những văn kiện chính thức. Tên hiệu các cơ sở thương
mại, văn hóa, phải viết bằng Việt ngữ.
10 ngày sau (6-9-1956),
Diệm lại ra Dụ số 53, hạ đòn quyết định, đánh thẳng vào nồi cơm của bọn
Ba Tàu. Dụ 53 chỉ định những nghề nghiệp mà các ngoại kiều, hay các hội
xã, công ty ngoại quốc không được hoạt động, đó là: 1. Buôn bán cá và
thịt; 2. Buôn bán chạp-phô (tạp hóa); 3. Buôn bán than, củi; 4. Buôn bán
xăng, dầu lửa và dầu nhớt (trừ các hãng nhập cảng); 5. Cầm đồ bình dân;
6. Buôn bán vải sồ, tơ lụa, chỉ sợi, ...; 7. Buôn bán sắt, đồng thau
vụn; 8. Nhà máy xay lúa; 9. Buôn bán ngũ cốc; 10. Chuyên chở hàng hóa,
hành khách bằng xe hơi, tàu hay thuyền; 11. Trung gian ăn huê hồng.
Những ngoại kiều đang hoạt động những nghề trên phải thôi các nghề đó
trong vòng 6 tháng đối với các nghề từ số 1 đến số 7, và một năm đối với
các nghề từ số 8 đến số 11. Những ai vi phạm Dụ này sẽ bị phạt tiền từ
50.000 cho đến 5 triệu đồng, và có thể bị trục xuất. Người Việt Nam nào
thông đồng với ngoại kiều vi phạm thì bị phạt 6 tháng đến 3 năm tù ở, và
bị phạt tiền giống mức ngoại kiều vi phạm.
Tuy Dụ lệnh chỉ đề
cập chung “ngoại kiều”, nhưng nhìn vào, ai cũng nhận ra, đối tượng của
nó là bọn Hoa kiều, vì 11 nghề đó là những hoạt động chính của họ. Ngày
24-10-1956 thủ tướng Ngô Đình Diệm đắc cử tổng thống. Tuy nhiên, cho đến
ngày 13-11-1956, theo Nguyễn Văn Vàng, Đặc ủy Trung Hoa sự vụ của chính
quyền Sài Gòn lúc đó, thì “Rất ít Hoa kiều đến khai nhận Việt tịch, Dụ
48 chưa đem lại kết quả khả quan”. Ngày 28-11-1956, Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ
trưởng quốc gia đặc trách kinh tế mời tất cả các đại diện nghề nghiệp
Hoa kiều của Văn phòng Thương mại Chợ Lớn đến để nói rõ chính sách quốc
tịch của chánh phủ. Ông Thơ cảnh cáo: “Những người ngoại quốc nào còn
muốn tiếp tục hoạt động kinh thương, vấn đề chính yếu là phải giải quyết
cho xong vấn đề quốc tịch. Đừng nghĩ rằng chánh phủ sẽ không có biện
pháp đối với những ai không muốn tiếp tục hành nghề và chịu thất nghiệp.
Giải pháp đã có sẵn, nó nằm trong tầm tay của mỗi quí vị, và quí vị hãy
tự quyết định lấy”.
Với hai Dụ lệnh 52 và 53, quy chế ngoại kiều
bao đời nay dành cho bọn Ba Tàu đã hoàn toàn bị bãi bỏ. Bị choáng bởi
liều thuốc quá sốc, phản ứng của họ rất dữ. Họ tẩy chay thuốc lá điếu và
không tiêu thụ thịt heo (là hai ngành nghề chính của người Việt lúc bấy
giờ mới hình thành), thành lập Hội Hoa kiều tẩy chay hàng hóa Mỹ tại
Việt Nam (nhằm làm áp lực buộc Hoa Kỳ phải góp phần can thiệp để Diệm
thu hồi các Dụ lệnh trên). Chính quyền một mặt xoa dịu dư luận bằng cách
cấp cho Hoa kiều thất nghiệp mỗi người được 200.000 đồng, nhưng hiệu
lực của Dụ lệnh vẫn cứ y nguyên giá trị, bất dịch.
Cảnh sát Sài
Gòn được phép bắt giữ và tịch thu thẻ căn cước Đài Loan của Hoa kiều để
cấp lại thẻ căn cước Việt Nam cho họ. Cửa hàng của Hoa kiều kinh doanh
11 ngành nghề nói trên phải gấp rút chuyển tên người sở hữu để đứng tên
thay thế.
Kinh tế miền Nam trong tháng 7 và 8-1957 bị ngừng trệ,
hầu như tê liệt. Người Tàu ồ ạt rút hết tiền ký thác trong các ngân
hàng, tổng số tiền rút ra từ tháng 11-1956 đến tháng 7-1957 là từ 800
triệu đến 1,5 tỷ đồng, tương đương 1/6 lượng tiền mặt đang lưu hành trên
toàn quốc. Đồng bạc Việt Nam tại thị trường chứng khoán Hồng Kông liên
tiếp bị mất giá từ 35 đồng/1 USD (1956) tăng lên 90 đồng (1957) và 105
đồng trên thị trường chợ đen.
Tiếp sức đồng hương, Hoa kiều Đông
Nam Á cũng làm áp lực bằng cách tẩy chay hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam
mà không do người Tàu bán. Cụ thể Hồng Kông từ chối mua 40.000 tấn gạo
mặc dầu đã ký hợp đồng từ trước, số gạo này khi được chở qua Singapore
thì cũng bị bọn Tàu Sing từ chối không chịu mua. Báo chí Hoa ngữ ở Đông
Nam Á đồng loạt lên tiếng đả kích chế độ Diệm bài Hoa. Trung cộng nhân
dịp này cũng chỉ trích chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa nhằm tranh thủ cảm
tình của Ba Tàu hải ngoại. Việt cộng đẩy mạnh “công tác Hoa vận” ở Sài
Gòn-Chợ Lớn, lôi kéo người Tàu theo “cách mạng”. Đất nước vừa mới thành
lập đã gặp phải ngay cơn thử thách lớn, tình hình cực kỳ nguy hiểm quyết
định tồn vong của chế độ Cộng hòa non trẻ.
Thật ra, người Tàu
cũng nhận biết sự kinh doanh miễn thuế của mình là bất lương; không gì
đáng hỗ thẹn bằng thụ hưởng lợi ích từ một đất nước đã cưu mang mình mà
lại không phải đóng góp gì để đền đáp lại. Nhưng vấn đề họ lấy làm lo sợ
nhất khi nhập Việt tịch là... phải thi hành quân dịch. Đã xa rồi cái
thời người Tàu liều thân xông pha sa trường đền ơn tri ngộ của các Chúa
Nguyễn. Những thế hệ Ba Tàu sau này lớn lên đã trở lại bẩm tính thiên
phú là kinh doanh, mưu cầu lợi nhuận, họ không muốn phải tham gia vào
trò chơi chiến tranh của người Việt. Tài sản dẫu tiêu tán thoòng vẫn có
thể gầy dựng lại, nhưng sinh mạng nếu lỡ mất đi thì không thể thu hồi.
Giờ đây, họ bị bắt buộc phải lựa chọn giữa việc tiếp tục kinh doanh với
điều kiện phải cho phép con em mình tham gia chiến tranh, tái diễn trò
Quốc-Cộng sinh tử ở Việt Nam; và một bên là phải rời bỏ mảnh đất mình đã
mấy đời gắn bó này. Huống chi, Hoa Kỳ đang ủng hộ Việ
t
Nam Cộng Hòa, cơ hội đầu tư đang mở rộng hơn bao giờ hết. Cuối năm ấy,
hầu hết Hoa kiều đang sinh sống ở Nam Việt Nam đều nhập Việt tịch, chỉ
hơn 40.000 người "hồi hương" về Đài Loan. Cuối cùng “cắc chú” đã phải
hiểu ra: không thể sinh sống trên một đất nước mà không tuân thủ luật
pháp của nước đó. Từ nay, máu của người Tàu đã cùng hội nhập với máu của
người Việt anh em, để gìn giữ nền Cộng Hòa.
* * *
Các chú bác cô dì anh chị Ba Tàu của tôi ơi! Sau 1975, khi Việt Nam thống nhất lãnh thổ, phải chịu đòn trưng dụng tước đoạt tài sản mệnh danh "cải tạo tư sản công thương nghiệp" của bạo quyền, và trải 2 lần đổi tiền tàn độc, cơ nghiệp tan tành, bang hội tại Việt Nam bị tiêu vong, chư vị có khi nào nhớ lại và tiếc thương Ngô tổng thống?
Vinh Huy Lê
_______
Tài liệu tham khảo:
- "Người Hoa tại Việt Nam", Nguyễn Văn Huy. Nxb NBC, Paris, 1973.
- "Tìm hiểu chính sách đối với người Hoa của chính quyền Sài Gòn qua các đạo dụ về vấn đề quốc tịch và vấn đề kinh tế ban hành trong hai năm 1955-1956", Trịnh Thị Mai Linh. Tạp chí Khoa Học Đại học Sư phạm Tp Hồ CHí Minh, số 23-2010.
- "Người Hoa ở Nam bộ", Phan An. Nxb Khoa học Xã hội, 2005.
〈第二次世界大戰後越南之華人政策 (1945-2003)〉Chính sách người Hoa ở Việt Nam sau Thế chiến II (1945-2003), Huỳnh Tôn Đỉnh. Luận văn nghiên cứu thạc sĩ Đại học Quốc Lập, Đài Loan, 2006.
Cùng vài hồ sơ liên quan của Quốc sử quán Đài Bắc.
* * *
Các chú bác cô dì anh chị Ba Tàu của tôi ơi! Sau 1975, khi Việt Nam thống nhất lãnh thổ, phải chịu đòn trưng dụng tước đoạt tài sản mệnh danh "cải tạo tư sản công thương nghiệp" của bạo quyền, và trải 2 lần đổi tiền tàn độc, cơ nghiệp tan tành, bang hội tại Việt Nam bị tiêu vong, chư vị có khi nào nhớ lại và tiếc thương Ngô tổng thống?
Vinh Huy Lê
_______
Tài liệu tham khảo:
- "Người Hoa tại Việt Nam", Nguyễn Văn Huy. Nxb NBC, Paris, 1973.
- "Tìm hiểu chính sách đối với người Hoa của chính quyền Sài Gòn qua các đạo dụ về vấn đề quốc tịch và vấn đề kinh tế ban hành trong hai năm 1955-1956", Trịnh Thị Mai Linh. Tạp chí Khoa Học Đại học Sư phạm Tp Hồ CHí Minh, số 23-2010.
- "Người Hoa ở Nam bộ", Phan An. Nxb Khoa học Xã hội, 2005.
〈第二次世界大戰後越南之華人政策 (1945-2003)〉Chính sách người Hoa ở Việt Nam sau Thế chiến II (1945-2003), Huỳnh Tôn Đỉnh. Luận văn nghiên cứu thạc sĩ Đại học Quốc Lập, Đài Loan, 2006.
Cùng vài hồ sơ liên quan của Quốc sử quán Đài Bắc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét