Trên trang hải ngoại nọ, có câu đối độc đáo, không đề tên tác giả:
地轉我越種居北方,歐洲境內無蒙騎樅橫千萬里;
Địa chuyển ngã Việt chủng cư Bắc phương, Âu châu cảnh nội vô Mông kỵ tung hoành thiên vạn lý;
(Đất Việt mà dời sang phương Bắc, cõi Âu châu đã không có kỵ binh Mông Cổ tung hoành vạn dặm)
天生此良材於宋室,中國史前免元朝都護一百年。
Thiên sinh thử lương tài ư Tống thất, Trung quốc sử tiền miễn Nguyên triều đô hộ nhất bách niên.
(Trời sinh tài lành này vào nhà Tống, lịch sử Trung Hoa trước đây đã khỏi phải quân Nguyên đô hộ cả trăm năm).
Địa chuyển ngã Việt chủng cư Bắc phương, Âu châu cảnh nội vô Mông kỵ tung hoành thiên vạn lý;
(Đất Việt mà dời sang phương Bắc, cõi Âu châu đã không có kỵ binh Mông Cổ tung hoành vạn dặm)
天生此良材於宋室,中國史前免元朝都護一百年。
Thiên sinh thử lương tài ư Tống thất, Trung quốc sử tiền miễn Nguyên triều đô hộ nhất bách niên.
(Trời sinh tài lành này vào nhà Tống, lịch sử Trung Hoa trước đây đã khỏi phải quân Nguyên đô hộ cả trăm năm).
Câu đối không nêu tên nhân vật, nhưng nghe qua ai cũng đoán được, chính
là vịnh Trần Quốc Tuấn, tức Hưng Đạo đại vương. Theo đó mà suy thì dân
tộc ta thật may mắn mới sản sinh được bậc thần tướng lỗi lạc dường ấy,
nhưng ấy cũng là vận rủi cho đại vương vì phải thác sinh vào đất nước
này; giá sinh ra ở Tây Tàu, hẳn công nghiệp ngài còn rạng rỡ không biết
ngần nào. Thế kỷ XXI, Việt Nam chuẩn bị xuất khẩu... danh tướng rồi
chăng?
Những lời ca ngợi Thánh Trần thật đã tràn lan xích đạo.
Nếu ví Hưng Đạo vương như con rồng thần, thì mây vờn ngũ sắc huyền ảo
che phủ mình rồng còn dày hơn cả vảy thực của rồng. 700 năm qua là hơn
30 thế hệ, hết lớp này đến lớp khác liên tục thay nhau vun đắp bát hương
cho hình tượng Thánh Trần, mấy ai ngậm ngùi cùng bi kịch lớn của đời
ông.
Xuôi theo dòng “lịch sử” Đại Việt, người ta thường lấy làm dễ chịu,
vì được thỏa mãn tự ti: dân tộc ta tuy nhược tiểu nhưng được cái là cha
ông vĩ đại mã thượng anh hùng. Tán dương ông bà tổ tiên là nguồn chủ đạo
cho cảm hứng hoài niệm oai phong rần rật trong huyết quản cộng đồng, mà
hình tượng Trần Quốc Tuấn là một minh chứng. Trong bài viết này, tôi
thử lật ngược lại để đặt ra vài nghi vấn, xem thử “lịch sử” đã ngụy tạo
cho nhân vật Trần Hưng Đạo đến mức nào. Và không viết thì thôi, đã viết
là viết cho cạn ý mình nghĩ và suốt mắt mình nhìn, tôi sẽ không quanh co
vị nể, hi hi!
Tài liệu tôi lấy làm căn cứ phân tích là “Đại Việt
sử ký toàn thư”, vì nó là văn bản gốc, các “sách sử” khác đều là dựa
theo Toàn thư mà tát nước theo mưa, thêu dệt thêm hoa lá cành[1] mà
thôi.
I. THÂN THẾ HƯNG ĐẠO VƯƠNG
Đây là căn nguyên chính
của bi kịch. Quốc Tuấn (1228-1300) là con Trần Liễu, Liễu là anh ruột
của Trần Cảnh (tức Trần Thái tôn). Trần Thủ Độ lập mưu cho Trần Cảnh lấy
Lý Chiêu Hoàng làm vợ để soán ngôi nhà Lý, năm ấy (1225), Cảnh chỉ mới 8
tuổi. 12 năm sau (1237), Trần Cảnh đã 20 vẫn không con, Thủ Độ lại lập
mưu cho Trần Cảnh lấy vợ của Trần Liễu là Thuận Thiên[2] lúc ấy đã có
mang 3 tháng, “để làm chỗ dựa về sau” (Toàn thư).
Bị cướp vợ,
Trần Liễu nổi giận dấy binh làm loạn, khiến nhà vua phải lo sợ kéo theo
cung phi lên Yên Tử. Cuộc tạo phản thất bại, những người hùa theo đều bị
giết, riêng Trần Liễu được vua đích thân đứng ra che chở.
Sử ghi: Trần Liễu ôm mối hờn mất vợ không nguôi, “cho nên tìm người
tài giỏi khắp bốn phương để dạy cho Quốc Tuấn”, đây là một câu vu khoát
viết khơi khơi, những “người tài giỏi” có thể đào tạo nên bậc đại anh
hùng dường kia há phải vô danh, tại sao không liệt kê ra đặng? Huống
chi, sau cuộc nổi loạn của cha, Quốc Tuấn khoảng 10 tuổi đã phải về ở
với người cô là Thụy Bà công chúa. Trần Liễu khi ấy lo thân mình chưa
xong, có thể lo đến việc dạy dỗ con sao? Và ai cả gan phò Liễu để dạy
Tuấn nữa, khi trước đó đã có tấm gương bọn theo Liễu đều bị tru lục?
Có lẽ do ỷ mình là con bậc thân vương, có mẹ nuôi là công chúa; lại
thêm tấm gương tiền nhân trước kia từng hiếp dâm được ngầm khích lệ[3],
nên Quốc Tuấn buông tuồng tự tác, tư thông với công chúa Thiên Thành,
ngang nhiên cướp vợ người.
Đó là việc xảy ra khi Quốc Tuấn đã
ngoài 20. Nguyên vua có cô em ruột là Thiên Thành, cho ở trong dinh của
Nhân Đạo vương. Rằm tháng Giêng Tân Hợi [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ
20 (1251), vua mở hội lớn bảy ngày đêm, định làm lễ cưới cho Thiên Thành
với Trung Thành vương (con của Nhân Đạo vương – Toàn thư không ghi rõ
họ tên hai cha con vị vương này). Quốc Tuấn bèn lẻn vào dinh chú rể,
chui vô buồng cô dâu để động phòng. Đã đành đây là việc trai gái thuận
tình, nhưng nếu thật lòng yêu, sao trước đó Quốc Tuấn không hỏi xin
nàng, mà phải đợi trước ngày cưới mới bày trò trên bộc trong dâu, đến
nỗi phải tốn của nhà vua 2.000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để bồi
thường cho họ đàng trai?
Và Thiên Thành kia là ai? - Ông nội Quốc
Tuấn là Trần Thừa có mấy người con là Thụy Bà (người nuôi Quốc Tuấn),
Trần Liễu (thân sinh Quốc Tuấn), Trần Cảnh (Thái tôn), Trần Nhật Hiệu,
Trần Bà Liệt, và Thiên Thành. Công chúa Thiên Thành đó chính là cô ruột
của Hưng Đạo vương vậy. Về cuộc hôn nhân nội huyết này, sau này nhiều kẻ
bao biện, bảo đó là lệ nhà Trần, nên Quốc Tuấn bị ép vào cuộc hôn nhân
lạ lùng. Một vị nhân thần sự nghiệp lẫy lừng mà lại chịu “bị ép”, và ép
phải lẻn vào nhà chú rể, leo lên giường cô ruột?
Mối hiềm khích
giữa chi thứ của Quốc Tuấn với chi đích của vua Trần, dù ông đã được
Thái tôn nhân nhượng cưới vợ cho, vẫn khó thể nguôi ngoai, và sẽ trở lại
ám vào suốt cuộc đời Hưng Đạo vương.
II. VAI TRÒ CỦA QUỐC TUẤN TRONG “”CÔNG CUỘC KHÁNG NGUYÊN”
Năm 1257, một cánh quân lẻ của Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai
(Uriyangqadai) chỉ huy xâm nhập nước ta để tìm đường đánh thọc lên Quảng
Tây của nhà Tống. Sự kiện này được sử Việt gọi là “Kháng Nguyên lần thứ
I”[4].
Trong cuộc chiến đầu tiên với Mông Cổ này, không hề thấy
Quốc Tuấn ló dạng, nhưng với ý định gò ép cho trọn vẹn chiến công để
tuyên dương, người đời sau thường khiên cưỡng nói lấy được, gọi ông là
"anh hùng của ba cuộc kháng chiến"[5]. Trong khi Toàn thư chỉ ghi: “Đinh
Tỵ, [Nguyên Phong] năm thứ 7 [1257] (...) Tháng 9, xuống chiếu, lệnh tả
hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới, theo sự tiết chế
của Quốc Tuấn”, xong là mất hút, không thấy ông xuất hiện nữa.
Rõ ràng trong đợt này, Quốc Tuấn chẳng hề đóng vai trò gì, Lê Tần mới là
nhân vật chính với công hộ giá. Vậy mà Trần Trọng Kim vẫn cãi cố, ráng
tưởng tượng thêm rằng khi đó Quốc Tuấn từng ra cản giặc và rút về cố thủ
ở Sơn Tây[6]!
Thái tôn Trần Cảnh lúc bấy giờ không thể không
nghi ngại ông cháu gọi mình bằng chú này, rất có thể sẽ thừa cơ có giặc
mà trở mặt làm phản. Nguyên do khiến vua phải nghi ngại là mới năm ngoái
đây, em của Tuấn là Trần Doãn đã mưu đào thoát sang Tàu, Toàn thư ghi:
“Bính Thìn, [Nguyên Phong] năm thứ 6 [1256] (...) Mùa thu, tháng 7, Vũ
Thành vương Doãn đem cả nhà trốn sang nước Tống. Thổ quan Tư Minh là
Hoàng Bính bắt lại đưa trả cho ta (Doãn là con Yên Sinh vương do Hiển Từ
sinh. Yên Sinh có hiềm khích với vua, đến khi Hiển Từ mất, [Doãn] bị
thất thế, nên trốn sang nước Tống). Vua thưởng vàng lụa cho Bính. Do đấy
việc giữ phòng quan ải càng thêm nghiêm ngặt”[7]. Ông em vừa bị bắt về
tội... vượt biên, thì ông anh bị cách ly điều tra là điều dễ hiểu.
Sau trận đụng độ làm tan tác cả kinh thành, Trần đã biết đá biết vàng,
quay đầu thần phục nhà Nguyên, chịu xưng thần, dâng cống phẩm, và để
Nguyên đặt một viên chức Toàn quyền xem việc cai trị trên đất nước “nhỏ
bằng bàn tay” của mình (lời Trần Anh tôn sau này – Toàn thư, Bản kỷ).
Suốt hơn phần tư thế kỷ, Trần chật vật tù túng dưới ách Nguyên triều,
cuối cùng đã buộc lòng quyết để kháng.
Suốt thời gian này, trải
mấy đời vua, Quốc Tuấn dần được “cất nhắc”, có lần Thánh tôn định phong
cho ông chức Tư đồ, nhưng ông từ chối. Toàn thư:
"Trước kia,
Thánh tông thân đi đánh giặc, Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ
không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thái tông gọi Hưng Đạo vương Quốc
Tuấn tới bảo: Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư
đồ để tiếp sứ phương Bắc. Quốc Tuấn trả lời: Việc tiếp sứ giả, thần
không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng
chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ
lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ
không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin
vâng mệnh cũng chưa muộn (Bản kỷ - Anh tôn).
Tư đồ thuở đó là
chức quan trông coi việc giáo dục cho hoàng tử cùng con cái của các thân
vương, cũng kiêm luôn việc ngoại giao tiếp sứ, và chức này thường được
trao cho người làu thông kinh sử, Quốc Tuấn mà dám nhận mới là chuyện lạ
lùng. Chẳng qua đó là khi anh em dòng vua đi vắng, họ e ở nhà có loạn
từ trong nên mới ướm thử Tuấn mà thôi!
Hãy xem Quốc Tuấn “ngoại
giao” thế nào: “Tân Tỵ, [Thiệu Bảo] năm thứ 3 [1281] (...) [Nhân tôn]
Sai chú họ là Trần Di Ái (tức Trần Ải) và Lê Mục, Lê Tuân sang Nguyên.
Nhà Nguyên lập Di Ái làm Lão hầu, cho Mục làm Hàn lâm học sĩ, Tuân làm
Thượng thư, lại sai Sài Xuân [có sách gọi Sài Thung] đem 1.000 quân hộ
tống về nước. Xuân ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương
Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Xuân dùng roi ngựa quất họ bị
thương ở đầu. Đến điện Tập Hiền, thấy chăng bày màn trướng, hắn mới chịu
xuống ngựa. Vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân nằm khểnh
không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng
Đạo vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Xuân làm gì.
Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào
trong phòng. Xuân đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc,
có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi
xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Xuân cầm cái tên đứng
sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn
không hề thay đổi. Khi trở về, Xuân ra cửa tiễn ông” (Toàn thư, Bản kỷ -
Trần Nhân tôn). Thì ra chỉ là giả làm nhà sư để được sứ giặc tiếp kiến,
chừng sứ Sài Xuân/ Thung phát giác sư giả thì Tuấn phải ôm đầu máu. Sài
Thung vốn là Lễ bộ thượng thư của Nguyên triều, trong mắt y thì Quốc
Tuấn lúc bấy giờ chẳng là gì, tuy nhiên việc cho người dùng vật nhọn
chọc vào đầu Tuấn là có thể có, mà cũng có thể... không, chứ còn việc
Quốc Tuấn ngồi yên chịu đòn mà vẫn trơ trơ rõ là chuyện bịa, mang hơi
hướm tiểu thuyết Tàu. Và tuy Toàn thư không nói, cũng có thể đoán ra
cuộc tiếp sứ đó chẳng đạt được thành quả gì.
Ấy vậy mà cuối năm
1284, khi Thái tử Thoát Hoan dẫn quân sang đánh thì Nhân tôn lại phong
cho Quốc Tuấn làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh quân đội, chứ không giao
chức ấy cho anh em ruột thân tín của mình, ấy là lẽ gì? Câu trả lời
chính là: để ông phải giơ đầu chịu báng. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyên
sử không ghi thẳng tên Quốc Tuấn, mà chỉ ghi là “Hưng Đạo vương”, họ
chép mấy đời vua Trần đều gọi bằng tên cộc lốc: Thái tôn là Quang Bính
光昺, Thánh tôn là Nhật Huyên 日烜, Nhân tôn là Nhật Tốn 日燇, Anh tôn là Nhật
Sủy 日㷃, v.v..., mà lại kiêng tên kỵ húy ông tướng kia sao? Đây chính là
nhà Trần muốn trút trách nhiệm chống cự thiên triều lên đầu ông, nên
mới có sự ngược ngạo lạ đời đó.
Chức danh Tiết chế chỉ là hư
danh, quyền chỉ huy tối cao vẫn trong tay Nhân tôn, Thượng hoàng và Quan
gia cũng chỉ bàn việc binh với các anh em chú bác ruột Quang Khải, Nhật
Duật... Cho nên mới có chuyện ông Tiết chế xin phép ông Thượng tướng
thái sư (Quang Khải) chặn đánh cánh quân của Toa Đô ở Nghệ An. Vậy mà
Thượng hoàng Thánh tôn vẫn còn nghi kỵ, vờ hỏi “Thế giặc [mạnh] như vậy,
ta phải hàng thôi?” để dò tâm ý Quốc Tuấn.
Mối hiềm cũ giữa hai
dòng anh em không chỉ gói gọn trong hoàng tộc, mà còn lan truyền ra
ngoài. Khi hai vua chạy bán xới bỏ lại kinh thành cả ấn tín lẫn công
chúa (An Tư), phải lênh đênh ra đến Quảng Ninh, Quốc công Tiết chế đến
hộ giá: “Lúc ấy, xa giá nhà vua phiêu giạt, mà Quốc Tuấn vốn có kỳ tài,
lại còn mối hiềm cũ của Yên Sinh vương, nên có nhiều người nghi ngại.
Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều
gườm mắt nhìn. Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi, chỉ chống gậy
không mà đi, còn nhiều việc đại loại như thế” (Toàn thư, Bản kỷ - Trần
Nhân tôn).
Trách nhiệm của Quốc Tuấn chỉ là giơ đầu chịu báng
gánh lấy trọng tội chống lại thiên triều. Nỗi ám ảnh ấy còn đeo đẳng ông
mãi đến khi sắp mất: “Khi sắp mất, ông dặn con rằng: Ta chết thì phải
hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi
san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải
[làm sao cho mau phục. Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, người Nguyên hai lần
vào cướp, ông liên tiếp đánh bại chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai họa
đào mả chăng. Ông lo nghĩ tới việc sau khi mất lại như thế đấy” (Toàn
thư, Bản kỷ - Trần Anh tôn).
Lúc Quốc Tuấn mới cầm quân, có dân
hai hương Ba Điểm và Bàng Hà hưởng ứng vâng lời tụ nghĩa theo về hăng
hái lập công, sau vì túng thế họ phải ra hàng giặc. Chừng luận công định
tội, cả hai hương đều bị xử lưu đày, trai trẻ thì làm lính hầu, gái bị
bán làm nô tỳ. Ông tướng thống lĩnh quân đội nhân dân lại không bảo vệ
được cho những người lính đầu tiên về dưới cờ mình; xem ra, những ai
dính dáng đến cha con ông này đều xúi quẩy, khó bảo toàn tính mạng. Vậy
nên chừng ông mang việc cướp ngôi và trả thù cha ra hỏi, bọn Yết Kiêu,
Dã Tượng đều chối đây đẩy bàn ra[8].
Một đời Quốc Tuấn quả là bi
kịch, luôn thấp thỏm lo lắng vì bị nghi kỵ, là kẻ "phản tặc tiềm năng"
của Trần triều, nên chỉ có tước phong mà không được nhận chức quan nào.
Giặc đến thì ra đứng mũi chịu sào chịu tiếng cầm đầu, lúc giặc tan ngoe
nguẩy đít không, trở về ấp phong Vạn Kiếp. Sắp xuống lỗ thì lo bị đào mả
phơi xương, chừng hiển thánh thì lại bị tên dâm thần Phạm Nhan dây máu
ăn phần, khiến bậc Đại vương lại ra chuyên trị sản huyết cho đàn bà[9],
thương ôi oan nghiệt!
III. TÁC PHẨM CỦA TRẦN QUỐC TUẤN?
Theo các nhà sử học, tác phẩm của Trần Quốc Tuấn có:
- Dụ chư tỳ tướng hịch văn.
- Binh gia diệu lý yếu lược.
- Vạn Kiếp tông bí truyền thư.
- Dụ chư tỳ tướng hịch văn.
- Binh gia diệu lý yếu lược.
- Vạn Kiếp tông bí truyền thư.
DỤ CHƯ TỲ TƯỚNG HỊCH VĂN:
Bài hịch này nguyên văn chữ Hán, có đưa vào sách giáo khoa môn ngữ văn,
với tên thường gọi là “Hịch tướng sĩ”. Bản dịch đầu tiên là của Trần
Trọng Kim[10]. Đây là lời Trần Quốc tuấn quở mắng bọn tỳ tướng trong đội
thân binh của riêng mình. Và khi đổi tên nó ra “Hịch tướng sĩ”, người
ta đã cố tình khoác cho nó tầm vóc rộng lớn hơn phạm vi ý nghĩa nó vốn
có. Hưng Đạo vương chỉ có thực quyền trên cánh thân binh của mình; ngoài
ra, với các cánh quân của các vương hầu khác, ông đều vâng lệnh Bí thư
Quân ủy Trung ương Trần Nhân tôn điều động, nên không thể có việc ông
ban “huấn thị” cho tướng sĩ cả nước.
Đọc thì thấy ông kể lể ơn
đức với những kẻ làm công ăn lương cho mình: “Các ngươi ở lâu dưới
trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì
ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi
thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa....” (bản dịch Ngô Tất
Tố).
Bài văn này lổn nhổn những điển tích, và dẫn chứng toàn lấy
trong sử Tàu, nghi vấn đây là của một tay thầy Tàu nào đó thì phải lẽ
hơn (thuở đó có không ít vong thần nhà Tống chạy sang An Nam đô hộ phủ);
thật khó tin ông hoàng lêu lỗng Quốc Tuấn có thể viết nên nó. Nhất là
không ai cổ vũ tỳ tướng đánh quân Nguyên mà lại lấy... tướng Mông làm
gương cả (“Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào? Xích Tu Tư tỳ tướng của
ông lại là người thế nào? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn
dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng
người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt” (Ngô Tất Tố dịch), đọc câu này,
người ta có thể ngờ rằng ngay chính Quốc Tuấn còn chẳng hề ghé mắt xem
qua để thẩm tra bài hịch là đàng khác!
BINH THƯ YẾU LƯỢC:
Đây là một quyển binh pháp, trong “Dụ chư tỳ tướng hịch văn” có nói:
“Nay ta chọn binh pháp các nhà, soạn thành một quyển, gọi là Binh thư
yếu lược”, tức đây là sách sưu tầm tổng hợp từ binh pháp của Tàu, nhưng
sử gia Việt Nam với truyền thống nói vống lấy oai, thường bảo đây là
sách “trứ tác”, tức do Quốc Tuấn tự nghĩ mà viết ra.
Sách này
được cho là đã bị quân Minh cướp lấy mang về Tàu, và “thất truyền”. Sách
dạy đánh giặc của vị thần tướng ba lần đại phá quân Nguyên, mà Tàu họ
không thèm gìn giữ nghiên cứu, lại đốt bỏ hay sao mà bị thất truyền?
Khoảng năm 1969, có viên tướng phòng không của Tưởng Giới Thạch, là Mã
Nguyên Lương chạy sang Việt Nam Cộng Hòa, để giúp Hộ pháp đạo Cao Đài
Phạm Công Tắc ở Tây Ninh dịch kinh sách. Ông tướng Tàu này mang theo một
quyển sách trời ơi đất hỡi mà ông ta bảo là “Binh thư yếu lược” của
Trần Hưng Đạo. Bản dịch sách đó (có đính kèm cả “Hổ trướng khu cơ” của
Đào Duy Từ) được nhà xuất bản Khai Trí (Sài Gòn) ấn hành.
Xin đặt
thẳng câu hỏi luôn vầy: Đại Việt vào thế kỷ XIII có thể đủ trình để
viết binh pháp hay không? Quân hồi vô phèng, mỗi vương hầu cầm một cánh
quân gồm những trai tráng nông dân trong thái ấp của mình ra trận, và
chiến thuật chủ yếu là bỏ chạy khi giặc đến, đánh vét đuôi khi giặc rút,
đúng kiểu du kích, trên một địa hình sông nước bùn lầy, thì việc hội
quân đã là khó, mong gì thao luyện mà nói chuyện binh pháp trăng sao?
Điểm lại từ xưa, ngoài “Binh thư yếu lược” (chỉ có cái tên), thì “binh
pháp” Đại Việt vỏn vẹn hai quyển: “Hổ trướng khu cơ” do Đào Duy Từ
(1572-1634) soạn; “Kỷ sự tân biên” của Thận Trai tiên sinh Lương Huy
Bích, người đời Lê Mạt soạn vào năm 1869. Và cả hai đều là sưu tầm tuyển
chọn rồi chép lại từ những binh pháp của Tàu, như: binh thư “Tôn tử”
của Tôn Vũ, “Ngô tử” của Ngô Khởi, “Lục thao”, “Tư Mã pháp”, “Tam lược”,
“Uất Liệu tử”, “Vệ công binh pháp” của Lý Tĩnh, “Hồ kiềm kinh” của Hứa
Động, “Kinh thể bát loại toàn biên” của Trần Nhân Tích, “Kỷ hiệu tân
thư” của Thích Kế Quang v.v... và phần dị đoan quỷ thần chiếm phần nội
dung lớn trong các sách này.
Nói tóm lại, tới giữa thế kỷ XIX, mà
“binh thư” Đại Việt vẫn toàn là chép lại từ sách Tàu, với đủ thứ cầu
đảo lâm ly, vậy mà người ta lại cho rằng ở thế kỷ XIII, người mình đã có
bộ binh thư trác tuyệt ư? Thiệt là huyễn tưởng mà, he he!
VẠN KIẾP TÔNG BÍ TRUYỀN THƯ:
Theo Toàn thư thì Quốc Tuấn sưu tập binh pháp các nhà, làm thành Bát
quái cửu cung đồ, đặt tên là “Vạn Kiếp tông bí truyền thư”. Cuốn này
cũng chỉ còn lưu lại có “bài Tựa” của Trần Khánh Dư đề, xin chép ra đây:
“Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì
không cần phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì
không chết (Hi hi, mấy ông tướng Trần thiệt là hài hước, khéo nói giỡn
chơi!).
“Ngày xưa Cao Dao làm sĩ sư mà không ai dám trái mệnh,
đến Vũ vương, Thành vương nhà Chu làm tướng cho Văn vương, Vũ vương,
ngầm lo sửa đức, để lật đổ nhà Thương mà dấy nên vương nghiệp, thế là
người giỏi cầm quân thì không cần phải bày trận vậy. Vua Thuấn múa mộc
và múa lông trĩ mà họ Hữu Miêu đến chầu, Tôn Vũ nước Ngô đem người đẹp
trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở mạnh, phía bắc uy hiếp
nước Tấn, nước Tần, nổi tiếng chư hầu, thế là người khéo bày trận không
cần phải đánh vậy. Đến Mã Ngập nước Tấn theo bát trận đồ, đánh vận động
hàng ngàn dặm, phá được Thụ Cơ Năng để thu phục Lương Châu, thế gọi là
người đánh giỏi không bao giờ thua vậy.
“Cho nên trận nghĩa là
‘trần’, là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, Hoàng Đế lập phép tỉnh điền để
đặt binh chế. Gia Cát [Lượng] xếp đá sông làm bát trận đồ, Vệ công sửa
lại làm thành Lục hoa trận. Hoàn Ôn lập ra Xà thế trận có vẽ các thế
trận hay, trình bày thứ tự, rõ ràng, trở thành khuôn phép. Nhưng người
đương thời ít ai hiểu được, thấy muôn đầu ngàn mối, cho là rối rắm, chưa
từng biến đổi. Như Lý Thuyên có soạn những điều suy diễn của mình,
những người đời sau cũng không hiểu ý nghĩa. Cho nên Quốc công ta mới
hiệu đính, biên tập đồ pháp của các nhà, soạn thành một sách, tuy ghi cả
những việc nhỏ nhặt, nhưng người dùng thì nên bỏ bớt chỗ rườm rà, tóm
lược lấy chất thực (Sách viết rườm rà chi, rồi dặn người đọc tự ý lược
bớt?)
“[Sách] gồm đủ ngũ hành tương ứng, cửu cung suy nhau, phối
hợp cương nhu, tuần hoàn chẵn lẻ. Không lẫn lộn âm với dương, thần với
sát, phương với lợi, sao lành, hung thần ác tướng, tam cát ngũ hung đều
rất rõ ràng, ngang với Tam Đại, trăm đánh trăm thắng. Cho nên, đương
thời có thể phía bắc trấn ngự Hung Nô, phía nam uy hiếp Lâm Ấp. Rồi dùng
sách này dạy bảo [con cháu] làm gia truyền, không tiết lộ ra ngoài. Lại
có lời dặn rằng: Sau này, con cháu và bồi thần của ta, ai học được bí
thuật này phải sáng suốt mà thi hành, bày xếp [thế trận]; không được ngu
dốt mà trao chữ truyền lời. Nếu không thế thì mình chịu tai ương mà vạ
lây đến con cháu. Thế gọi là tiết lộ thiên cơ đó” (Toàn thư, Bản kỷ -
Trần Anh tôn).
Vậy là đủ hiểu, ba mớ binh thư bí truyền này nếu thực có, thì hổ lốn linh tinh tý tèo đến độ nào, thiện tai thiện tai!
_______
_______
Chú thích:
[1] Đơn cử “Nam hải dị nhơn” của Phan Kế Bính chép về Trần Hưng Đạo:
“Khi trước An sinh vương phu nhân, nằm mơ thấy một ông thần tinh vàng
tướng ngọc tự xưng là Thanh Tiên đồng tử phụng mệnh Ngọc hoàng xuống xin
đầu thai, nhân thế có mang. Đến lúc sinh ra vương, có hào quang sáng
rực cả nhà và có mùi hương thơm ngào ngạt.
“Vương khôi ngô kỳ vĩ,
thông minh sớm lắm, lên 5, 6 tuổi đã biết làm thơ ngũ ngôn, và hay bày
chơi đồ bát trận. Khi gần lớn, học rộng các sách, thông hết lục thao tam
lược, có tài kiêm cả văn võ”.
Đây là lối viết sử bắt chước tiểu thuyết diễn nghĩa của Tàu, nghĩa là rất tào lao và vô bổ, nếu không nói là có tác hại.
[2] Cuộc hôn nhân dây cà ra dây muống này lắm lằng nhằng, trở thành
gương mẫu cho các cuộc hôn nhân nội huyết về sau của tôn thất nhà Trần.
Nói “lằng nhằng” là bởi không chỉ rắc rối bên đàng trai, mà còn cù cưa
cả bên đàng gái.
Nguyên Lý Huệ tôn, ông vua tuyệt tự của triều
Lý, có hai cô con gái: chị là Thuận Thiên (1216), và em là Chiêu Hoàng
(1218). Lý Chiêu Hoàng mới 6 tuổi thì được vua cha truyền ngôi cho. Trần
Thủ Độ nhân đó mưu soán ngôi nhà Lý, bèn ép Chiêu Hoàng phải lấy Trần
Cảnh; và vẫn chưa yên tâm, vì còn cô chị Thuận Thiên, Thủ Độ mới gả luôn
cho Trần Liễu. Hai anh em họ Trần cưới hai chị em họ Lý, vậy là dứt hậu
hoạn, không còn ai chen vô. Đến chừng Trần Cảnh rước bà bầu Thuận Thiên
về, thì đó vừa là chị dâu vừa là chị vợ, chừng sinh con ra, trong nhà
xưng hô lung tung kêu cha gọi chú lùng tùng xèng, thấy vui!
[3]
“Bính Thân, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 5 [1236]… Bấy giờ Hiển Hoàng
[Trần] Liễu làm tri Thánh Từ cung, nhân nước to, đi thuyền vào chầu,
thấy người phi cũ của triều Lý liền cưỡng dâm ở cung Lệ Thiên. Đình thân
hặc tấu, vì thế mới đổi tên cung Thưởng Xuân, giáng Hiển làm Hoài
vương”.
Vào chầu nhân tiện cưỡng dâm, mà vẫn được tước vương, hai
chữ “Thưởng Xuân” cải tên rõ ràng là có ý lấy việc cưỡng dâm kia làm
thích thú. Việc này xảy ra một năm trước khi Trần Liễu bị đoạt vợ, nên
ai đó bảo hành vi kia của Trần Liễu là để trả thù việc bị cướp vợ là
không đúng. Trần Liễu hiếp dâm là làm theo bản năng, không phải hành vi
có chuẩn bị với ý đồ trả miếng.
[4] Lúc đó Mông Cổ chưa diệt Nam Tống để thành lập nhà Nguyên, nên phải gọi trận này là “Kháng Mông” mới đúng.
[5] Trang Wikipedia tiếng Việt nhận định về Trần Quốc Tuấn: “Ông là một
trong những người chỉ huy chính trong việc đẩy lùi ba lần cuộc xâm lược
của quân Mông Cổ và về sau là quân Nguyên-Mông ở thế kỷ 13”.
[6] “Việt Nam sử lược” – Trần Trọng Kim, quyển I, phần III, chương 6, tiết 11.
[7] Đại Việt sử ký Toàn thư, Bản kỷ - Trần Thái tôn.
[8] Toàn thư bênh vực bào chữa bằng cách nói trớ: “Lúc sắp mất, Yên
Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối giăng rằng: Con không vì cha lấy được thiên
hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được! Quốc Tuấn ghi
điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải”. “Không cho là phải”, mà
lại để bụng đến nửa thế kỷ sau còn mang ra hỏi để dọ ý tùy tùng?
[9] Phụ lục “Việt điện u linh tập”, Lý Tế Xuyên - Lê Hữu Mục dịch: “Vương trị bệnh tà Phạm Nhan rất linh nghiệm”.
[10] "Việt Nam sử lược” – Trần Trọng Kim, 1917.
Vinh Huy Lê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét